Monday 20 May 2013

Về những bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ năm 1919 đến năm 1923 (trao đổi với Thụy Khuê) (Ngô Trần Đức - Quân Đội Nhân Dân)

Về những bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ năm 1919 đến năm 1923 (trao đổi với Thụy Khuê)

NGÔ TRẦN ĐỨC

Hình ảnh của Về những bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ năm 1919 đến năm 1923 (trao đổi với Thụy Khuê)
1. MỞ ĐẦU
Trên báo mạng của Đài RFI tiếng Việt, sau loạt bài về Nhân văn - Giai phẩm, Thụy Khuê đã cho đăng một bài viết 4 kỳ với một cái tít khá giật gân: Ai viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ 1919 đến 1923?


Tên bài khiến tôi phải đọc, bởi lẽ ai cũng biết, thời gian đầu, Nguyễn Ái Quốc được coi là bút danh tập thể của ba người: Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Tất Thành khi thảo bản Yêu sách gửi Hội nghị Versailles; nếu làm rõ được những bài viết sau đó, khoảng từ giữa năm 1919 sang đầu năm 1920, bài nào là của Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, bài nào là của Nguyễn Tất Thành, thì cũng là một đóng góp trong việc nghiên cứu, bởi cần phải “trả lại những gì của César cho César”, đó là cách ứng xử sòng phẳng đối với các vấn đề của lịch sử nói chung, cũng là một thái độ cần có trong nghiên cứu khoa học.
Nhưng để làm được việc đó thật không đơn giản chút nào. Những bài viết ấy xuất hiện cách đây đã hơn 80 năm, các tác giả của nó đã đi vào lịch sử từ rất lâu, và những người đương thời - như những chứng nhân lịch sử - cũng chẳng còn ai. Để có thể làm rõ một cách thuyết phục, đòi hỏi phải rất công phu: phải đi sâu khảo sát thư tịch, sưu tầm, tra cứu bản thảo, bút tích của các tác giả từ những nguồn lưu trữ khác nhau trong và ngoài nước, so sánh đối chiếu nội dung, sự kiện được đề cập đến trong bài viết với cuộc đời hoạt động và văn phong của các tác giả,… để xem vào thời điểm đó, ai có thể viết, được công bố lần đầu tiên ở đâu, trên báo nào… Tóm lại, là phải có minh chứng, lập luận, lý giải thuyết phục, chứ không thể cứ một mực tùy tiện, nói liều!
Đọc xong bài viết 4 kỳ của Thụy Khuê, tôi hoàn toàn thất vọng, bởi tác giả hình như không có ý định xuất hiện như một nhà khảo cứu với phương pháp làm việc khoa học mà chỉ muốn làm một nhà báo tuyên truyền cho động cơ chính trị của nhà Đài! Âu cũng là chuyện thường tình, như là “nợ áo cơm, phải trả hình hài” vậy thôi! Người đọc nhận thấy ngay, các chủ kiến và lập luận của Thụy Khuê đưa ra hoàn toàn không phải là kết quả của một quá trình tìm tòi nghiêm túc, dựa trên các chứng cứ xác thực, được chứng minh cụ thể, có nguồn xuất xứ tin cậy, mà chỉ toàn xuất phát từ những thiên kiến chủ quan, những lập luận hời hợt, để rồi đưa ra những kết luận hồ đồ với cách thức diễn đạt không thể chấp nhận trong nghiên cứu khoa học: có lẽ là, có thể là, rất có thể là, phải chăng là… (của Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh,…) được tác giả lặp đi lặp lại hàng chục lần! Những lỗi thô thiển về logic và lập luận như vậy có lẽ chỉ những học sinh trung học đang tập viết văn chính luận mới thường mắc phải!
Tuy nhiên, người đọc vẫn hiểu được cái đích của bài viết mà Thụy Khuê muốn đi tới là: tất cả các bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc từ năm 1919 đến năm 1923, thậm chí đến năm 1927, bao gồm cả những bài được đăng trên Inprekor - cơ quan thông tin của Quốc tế Cộng sản, cả hai cuốn Đông Dương và Bản án chế độ thực dân Pháp, cũng được quy cho là của Nguyễn Thế Truyền hoặc Nguyễn An Ninh mà không cần bất cứ một sự chứng minh nào! Thật không thể tưởng tượng nổi có một người phụ nữ cầm bút, định làm nghiên cứu mà lại liều lĩnh đến như vậy!
Cơ sở xuất phát cho mọi thiên kiến cực đoan của Thụy Khuê bắt đầu từ chỗ tác giả cho rằng: giữa năm 1919, Nguyễn Tất Thành mới từ Anh trở lại Paris, lúc đó anh mới đang học tiếng Pháp nên chưa thể viết những bài báo có nội dung chính trị phức tạp được!
Kể ra, đối với một bài viết tùy tiện như thế, thực không đáng phải tốn nhiều giấy mực về nó. Nhưng với nhiều bạn đọc, nhất là các bạn trẻ, không có điều kiện trực tiếp với thư tịch gốc, đọc Thụy Khuê sẽ dễ bị ngộ nhận, nên tôi thấy cần thiết phải viết bài trao đổi này với Thụy Khuê và với các bạn đọc có quan tâm đến vấn đề được đặt ra.
2. NGUYỄN TẤT THÀNH TRỞ LẠI PARIS NĂM NÀO? TRÌNH ĐỘ TIẾNG PHÁP CỦA ANH RA SAO?
2.1. Đúng là vấn đề thời gian Nguyễn Tất Thành trở lại Paris chính xác vào ngày tháng năm nào vẫn đang còn có ý kiến khác nhau. Tiến sĩ sử học Thu Trang, trong hai công trình nghiên cứu của mình về Phan Chu Trinh và về Nguyễn Ái Quốc, đều cho rằng: “Nguyễn Ái Quốc đã đến Paris vào đúng lúc Hội người Việt Nam yêu nước ra đời. Nghĩa là vào cuối năm 1916 đầu năm 1917, chắc hẳn không phải là trường hợp ngẫu nhiên” [1].
Một số người khác, trong đó có nhà sử học Pháp Daniel Hémery, lại cho là vào năm 1919 chứ không phải năm 1917 [2]. Cả hai phía đều dựa vào những báo cáo khác nhau của mật thám. Tuy nhiên, có nhiều nhà nghiên cứu lại cho rằng, cần phân biệt thời điểm Nguyễn Tất Thành bí mật trở lại Paris với thời điểm mật thám phát hiện ra anh từ sau vụ anh thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước đến trao bản Yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị hòa bình Versailles. Nghĩa là mật thám Pháp chỉ phát hiện ra anh từ sau ngày 18/6/1919, sau khi Tổ chức giúp đỡ người lao động nhập cư của Đảng Xã hội đã lo xong cho anh những giấy tờ hợp pháp, để từ đó anh có thể xuất hiện công khai. Như vậy, Nguyễn Tất Thành đã phải có mặt ở Paris trước thời điểm nói trên từ lâu rồi.
Bạn đọc có thể tham khảo thêm bài viết của một đảng viên Xã hội kỳ cựu, nguyên là công nhân xưởng in báo L’Humanité, có chân trong ban đón tiếp người lao động nhập cư của Đảng Xã hội sau chiến tranh; ông đã kể cho biết: Lần đầu tiên tôi gặp anh Nguyễn là vào tháng 7/1918, khi anh mới từ Luân Đôn sang được mấy tháng, lúc đó anh đang phải sống ẩn dật trong một căn phòng nhỏ ở phố Charonne, có khi hàng tuần không dám ra ngoài, để tránh mọi sự khám xét. Tôi đã thu xếp cho anh một chỗ ở mới tại quận 13, nhà đồng chí Moktar, người Tunisie. Để đảm bảo an toàn, khi Moktar đi vắng, anh không được đốt lửa, thắp đèn, mùa đông năm ấy rất rét. Anh phải chịu đựng như thế cho đến khi Đảng thu xếp xong cho anh các giấy tờ hợp pháp: giấy quân dịch, thẻ lao động,… [3].
Thụy Khuê khẳng định thời điểm Nguyễn Tất Thành đến Paris là tháng 6/1919 vì nó phù hợp với chủ kiến của mình: “Mãi giữa năm 1919, Nguyễn Tất Thành mới đến Paris, tiếng Pháp chưa thạo, làm sao viết được những bài báo chính trị phức tạp!”.
2.2. Vấn đề cần làm rõ là vào thời điểm đó, khả năng tiếng Pháp của anh Thành đã đạt tới trình độ nào? Theo tiểu sử, chúng ta biết khi ở trong nước, anh Thành đã vào học trường Quốc học Huế, đã hoàn thành chương trình lớp cao đẳng (cours supérieur). Trong lời khai với sở mật thám Huế ngày 19/3/1920, ông Nguyễn Tất Đạt cũng nói rõ: “Il obtint son certificat d’études primaires en 1908 et fut admís au Quôc Hoc” [4]. Khi ra nước ngoài, anh Thành làm việc trên tàu viễn dương cho các hãng Chargeurs Réunis rồi hãng Messageries Maritimes (Năm Sao) đều là các hãng vận tải biển của Pháp, chỉ chuyên nói tiếng Pháp.
Tại Marseille ngày 15/9/1911, anh Thành đã viết đơn bằng tiếng Pháp, gửi Tổng thống Cộng hòa Pháp, xin vào học Trường Thuộc địa, cuối thư có nói rõ: biết tiếng Pháp, Quốc ngữ và chữ Hán. Tiếp theo, tại Sài Gòn ngày 31/10/1911 và tại New York ngày 15/12/1912, anh Thành đã gửi hai bức thư cho Khâm sứ Trung Kỳ, một bức nhờ chuyển cho cha một ngân phiếu 15$, một bức cho biết đã gửi cho cha là Nguyễn Sinh Huy 3 ngân phiếu nhưng mới chỉ nhận được một thư trả lời; thư tỏ ý muốn được biết địa chỉ và tình hình cha mình hiện nay sống ra sao. Những bức thư này được viết bằng tiếng Pháp với một cách diễn đạt gãy gọn, trong sáng và chuẩn xác về chính tả - ngữ pháp, chứng tỏ người viết đã có một trình độ vững vàng về tiếng Pháp [5].
Thời gian đầu sang Anh, trong một lá thư gửi Phan Châu Trinh, anh viết: “Mấy bốn tháng rưỡi nay thì chỉ làm với Tây, nói tiếng Tây luôn. Tuy ở Anh nhưng chẳng khác gì ở Pháp”. Điều đó cho thấy việc học nói và viết tiếng Pháp của anh Thành là một quá trình liên tục, vì vậy khi trở lại Paris, anh đã có thể nói và viết tiếng Pháp thông thạo, đó là điều dễ hiểu.
Các mật vụ người Việt có nhiệm vụ theo dõi anh đều có báo cáo giống nhau, như mật báo của Đốc phủ Bảy (mật danh là Edouard) viết: “Anh ta nói được tiếng Anh và tiếng Pháp thông thạo, biết ít tiếng Đức và tiếng Trung Quốc”. Một nhà báo Mỹ đã phỏng vấn anh và đăng bài đó trên tờ Yi Che Pao, xuất bản ở Thiên Tân, số ra ngày 2/9/1919, đã xác nhận: “Nguyễn Ái Quốc nói tiếng Pháp rất giỏi” (parle admirablement le français) [6].
Không lâu, sau khi xuất hiện công khai, Nguyễn Ái Quốc đã hăng hái đăng đàn diễn thuyết bằng tiếng Pháp với thính giả Pháp, xin đơn cử:
- Ngày 14/1/1920, tại số 3 đường Château - Paris, Nguyễn Ái Quốc diễn thuyết về đề tài Sự tiến triển trong xã hội các dân tộc châu Á và những yêu cầu của nước Nam (Theo báo L’Humanité các số ra ngày 13 và ngày 14/1/1920 và báo cáo của mật thám Jean).
- Ngày 11/2/1920, Nguyễn Ái Quốc thuyết trình đề tài Chủ nghĩa cộng sản ở châu Á và vấn đề ruộng công điền ở Trung Quốc và Việt Nam, tại Hội nghị những người thanh niên cộng sản Quận 2 (Theo báo cáo của mật thám Jean).
- Tại cuộc mít-tinh kỷ niệm ngày 1/5/1920, Nguyễn Ái Quốc đã lên diễn đàn nói về Chương trình hoạt động của Nhóm Xã hội đòi ngừng gửi người thuộc địa sang Pháp (Báo cáo của mật thám Jean).
- Ngày 25/12/1920, Nguyễn Ái Quốc, đại biểu duy nhất là người bản xứ, được mời tham dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, khai mạc tại thành phố Tours. Ngay buổi chiều hôm sau, anh được Chủ tịch phiên họp - Emile Goude - mời lên phát biểu. Lần đầu tiên trong đời, anh được dự một Đại hội lớn với sự có mặt của những trí thức tên tuổi của nước Pháp bấy giờ, nên không tránh khỏi xúc động, có lúc hơi thiếu bình tĩnh. Bài phát biểu ứng khẩu, được biên bản tốc ký ghi lại cho thấy ở anh một tư duy và ngôn ngữ Pháp sắc sảo, súc tích, sáng sủa, mạch lạc, tập trung vào mục tiêu tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, kêu gọi sự ủng hộ thiết thực sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Bài phát biểu đã được Đại hội nhiều lần vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Phát biểu tiếp theo đại biểu Đông Dương, chủ tịch phiên họp - E.Goude - đã nhận xét: “Bằng một thứ tiếng Pháp tuyệt vời(en un excellent français), ông đã tố cáo những tội ác, những hành động đàn áp và chuyên chế mà hai mươi triệu người An Nam là nạn nhân, họ bị đầu độc bằng rượu và thuốc phiện, bị bóc lột và truy nã bởi một thứ công lý tư sản đè nặng lên họ. Tất cả những đảng viên xã hội nhất trí phản kháng, chống lại những bất công và tội ác của thứ công lý tư sản ở Đông Dương” (Vỗ tay) [7].
Đưa ra một vài dẫn chứng để hiểu được trình độ tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc vào quãng năm 1919-1920, khi ông bước vào hoạt động chính trị ngay tại thủ đô Paris. Tất nhiên, từ văn nói đến văn viết còn phải qua một chặng đường học tập và rèn luyện nữa. Nguyễn Ái Quốc hiểu rằng, hoạt động chính trị công khai giữa Paris phải sử dụng được vũ khí tuyên truyền sắc bén là sách báo, nên đã ra sức học viết, trước hết là học với người thầy trực tiếp ở ngay cùng nhà là Phan Văn Trường, sau đó là miệt mài ở các thư viện. Nhờ khiêm tốn và dày công học hỏi, nên ông Nguyễn đã tiến bộ rất nhanh trong viết báo. Dấu ấn phong cách Phan Văn Trường trong những bài viết đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là rất rõ, hoặc do Phan Văn Trường hướng dẫn hoặc được Phan trực tiếp sửa chữa, nên sự khó phân biệt cũng là dễ hiểu (chính Hồ Chí Minh sau này đã công khai nói rõ điều đó). Vì vậy, ngày nay mới cần đến sự thẩm định của nhà nghiên cứu.
Thụy Khuê xuất phát từ cái nhìn miệt thị cho rằng, Nguyễn Tất Thành tuy cũng xuất thân con quan, nhưng khi xuất dương đã phải sống một cuộc sống nghèo khổ, cực nhọc, không được học hành, không có bằng cấp như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, nên không đủ kiến thức và Pháp văn để viết, vai trò của ông trong tờ báo Le Paria chỉ là “giữ sổ sách, tập viết mấy dòng tin tức, in và phát truyền đơn” thế thôi! Những câu viết khinh thị với đầu óc nặng bằng cấp này chứng tỏ Thụy Khuê tuy sống ở Pháp đã lâu nhưng lại không có được cái nhìn tiên tiến của giới trí thức Pháp.
Người Pháp thứ thiệt lại rất coi nhẹ bằng cấp mà coi trọng thực tài, đề cao tư duy độc lập, khả năng phản biện và cá tính sáng tạo. Hãy nghe một trí thức Pháp, ông Daniel Hémery, đánh giá về Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sau này: “Hồ Chí Minh không hoàn thành trọn vẹn một chương trình giáo dục nào, ông cũng không tiếp nhận đầy đủ một nền tri thức hiện đại cũng như nền nho học cổ truyền mà đứng giữa hai nền văn hóa đó. Ông là một người tự học đầy tài năng, là hình mẫu của giới trí thức không bằng cấp, sẽ giữ vai trò quyết định trong phong trào cách mạng” [8].

Bản án chế độ thực dân Pháp.
3. BÚT DANH NGUYỄN ÁI QUỐC TRỞ THÀNH TÊN RIÊNG CỦA NGUYỄN TẤT THÀNH NHƯ THẾ NÀO VÀ TỪ BAO GIỜ?
3.1. Bút danh Nguyễn Ái Quốc xuất hiện lần đầu tiên tháng 6/1919 trong bản Thỉnh nguyện thư gửi hội nghị Versailles, đồng thời cũng được gửi đến Tổng thống Hợp chủng quốc và các đoàn đại biểu nhiều nước tham dự Hội nghị. Theo nhiều nhà nghiên cứu, sáng kiến đưa thỉnh nguyện thư là của Phan Châu Trinh, Nguyễn Tất Thành và do Phan Văn Trường chấp bút, dưới ký một bút danh chung là Nguyễn Ái Quốc, nhưng địa chỉ ghi bên dưới không phải 6 Villa des Gobelins mà là 56 phố Monsieur le Prince, nơi cư trú lúc đó của Nguyễn Tất Thành.
Ngày 14/11/1919, Bộ Thuộc địa Pháp có thư mời Nguyễn Ái Quốc đến gặp để kiểm tra lý lịch, đã gửi thư về địa chỉ này, nhưng khi đó anh Thành đã chuyển đến số 6 Villa des Gobelins, nhà của Phan Văn Trường [9]. Nhận được thư mời, Nguyễn Tất Thành ung dung đến trụ sở Bộ Thuộc địa diện kiến Bộ trưởng A. Sarraut - người đã có hai nhiệm kỳ làm Toàn quyền Đông Dương - và sau đó với P. Pasquier (người sau này cũng trở thành Toàn quyền Đông Dương). Qua những cuộc gặp gỡ và đối thoại thẳng thắn này, cùng với kết quả xác minh của những mật thám người Việt bủa vây quanh anh, người mang tên Nguyễn Ái Quốc hiện diện bằng xương bằng thịt đã được khẳng định chính là Nguyễn Tất Thành.
Tất nhiên, bút danh Nguyễn Ái Quốc có thể vẫn được Phan Văn Trường tiếp tục sử dụng trong một thời gian nữa, từ cuối năm 1919 đến đầu năm 1920, một là vì thời gian đó, bản Yêu sách vừa mới được công bố trên L’Humanité, các thế lực thực dân đang có phản ứng mạnh về nội dung bản Yêu sách, bút danh Nguyễn Ái Quốc đang nổi như cồn, ký bút danh đó sẽ được người đọc chú ý hơn; hai là xét về nội dung các bài báo xuất hiện cuối năm 1919 như Ở Đông Dương, vấn đề dân bản xứ (L’Humanité, ngày 2/8/1919), bài Đông Dương và Triều Tiên (Le Populaire ngày 4/9/1919), bài Thư gửi ông Outrey (Le Populaire, ngày 14/10/1919), nói chung đều xoay quanh nội dung bản Yêu sách, cùng một mạch văn, nên có thể vẫn do Phan Văn Trường viết.
Điều này cũng đã từng được Tiến sĩ sử học Thu Trang nêu lên qua phân tích sự khác nhau trong lối hành văn, cách lý luận giữa Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc, một bên là luật sư, “có một túi luật lệ”, nên thỉnh thoảng ông đưa sự hiểu biết chuyên môn của mình ra để đấu khẩu với những tên thực dân” (như bài Thư gửi ông Outrey); còn Nguyễn Ái Quốc, trong những bài báo về sau, “không mấy khi Nguyễn dùng luật lệ để bắt bẻ thực dân, mà phần nhiều hay dùng những chứng cớ hiển nhiên, dễ hiểu, thực tế đập vào mắt độc giả. Nội dung giản dị, dễ đọc, không đi vào chuyên môn; khi cần dẫn chứng thì mới trích đoạn chỗ này, chỗ khác, hoặc trích vài con số để chứng minh sự thật” [10].
Thu Trang nghi vấn các bài này có thể là của Phan Văn Trường, chứ không hề nghĩ đến Nguyễn An Ninh hay Nguyễn Thế Truyền như Thụy Khuê đã gán một cách vô căn cứ cho hai người này, đơn giản là vì, vào năm 1919-1920 Nguyễn Thế Truyền vẫn chưa có mặt tại Paris. Theo Đặng Hữu Thụ [11], từ năm 1916-1920, ông Truyền đang học đại học ở Toulouse, miền Nam nước Pháp; năm 1920 tốt nghiệp kỹ sư hóa học và cử nhân khoa học ban Lý - Hóa, sau đó ông về nước cưới vợ và ở lại trong nước hơn một năm. Ngày 23/8/1921, ông lại được học bổng của Thống sứ Bắc Kỳ, tiếp tục đi du học lần thứ ba, theo học tại Đại học Sorbonne, cuối năm 1922 đậu cử nhân triết học và bắt đầu kết giao thân thiết với Nguyễn Ái Quốc và viết báo Le Paria; có một thời gian ngắn ông tá túc ở số 6 Villa des Gobelins, sau đó ông Truyền thuê nhà ở tại số 6 đường Saint-Louis-en-l’Ile Paris. Như vậy, những bài báo đầu tiên của Nguyễn Thế Truyền sẽ chỉ bắt đầu xuất hiện vào cuối năm 1922 trên tờ Le Paria.
Còn Nguyễn An Ninh, sinh năm 1900, 18 tuổi ông mới sang Paris, tiếp tục học luật tại Sorbonne, hai năm sau (1920) đậu xuất sắc bằng cử nhân luật, nhưng chưa thấy nói đến những hoạt động chính trị của ông vào thời gian này. Như vậy, khó có thể nói võ đoán như Thụy Khuê rằng Thư gửi ông Outrey là của Nguyễn An Ninh viết, với một lập luận “kỳ khôi” rằng: “Outrey và Nguyễn An Ninh cùng ở Nam Kỳ nên biết rõ hành tung của nhau: Outrey biết rõ gốc gác và hành động của Nguyễn An Ninh,… khi đọc văn, y đoán chắc là của Nguyễn An Ninh, nên trong lời buộc tội ở hạ viện, Outrey đã mô tả Nguyễn Ái Quốc như Nguyễn An Ninh”(sic)!
Thụy Khuê cần biết rằng Outrey là ủy viên Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ và là đại biểu của Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ trong Hạ viện Pháp, rồi làm Thống đốc Nam Kỳ, đang dòm ngó chức Toàn quyền Đông Dương; còn Nguyễn An Ninh khi ở trong nước mới chỉ là một học sinh Cao đẳng pháp chính thuộc Đại học Đông Dương, chưa đến 18 tuổi, hãy còn vô danh, nghĩa là chưa viết lách và chưa có hoạt động chống đối tiếng tăm gì, vậy tại sao một quan chức thực dân cao cấp như Outrey lại có thể “biết rõ gốc gác và hành tung của Nguyễn An Ninh, khi đọc văn y nhận ra ngay để có thể khẳng định Nguyễn Ái Quốc chính là Nguyễn An Ninh? (Những lập luận kiểu “tự do sáng tác” như thế này không hiếm trong bài viết của Thụy Khuê, có dẫn ra nữa cũng chỉ làm mất thêm thì giờ của độc giả).
3.2. Vậy bút danh Nguyễn Ái Quốc trở thành tên riêng của Nguyễn Tất Thành từ bao giờ? Cần nói ngay rằng, “nhóm Ngũ Long” là do người đời sau đặt ra để tôn vinh năm nhà hoạt động yêu nước nổi tiếng có mặt tại Paris trong những năm 20 của thế kỷ trước (ví như người ta vẫn đặt: “Nam Đàn tứ hổ”, “Thăng Long tứ kiệt”,…) chứ không phải là một “nhóm” có ý nghĩa về tổ chức, hình thành và hoạt động bên nhau cùng một lúc. Mỗi người có một vai trò và nổi lên ở một giai đoạn nhưng không phải khi nào họ cũng nhất trí với nhau về xu hướng, quan điểm và phương pháp hành động.
Nguyễn Ái Quốc từ khi gia nhập Đảng Xã hội rồi trở thành người cộng sản thì xu hướng ngày càng cấp tiến, hoạt động ngày càng mạnh mẽ; Phan Văn Trường là một trí thức có quốc tịch Pháp nên chủ yếu muốn dựa vào pháp luật và báo chí công khai để đấu tranh; Phan Châu Trinh thì chủ trương cải cách ôn hòa, mềm mỏng, không muốn làm mất lòng người Pháp. Họ thường tranh luận, có khi to tiếng với nhau, từ đêm này qua đêm khác, khiến hàng xóm phải than phiền. Tranh luận mãi mà không thuyết phục được nhau cũng mệt mỏi, cuối cùng đành mỗi người tạm đi một nơi: Cụ Phan dọn về ở 21 Pernety rồi cuối năm đó xuống Marseille làm việc hơn một năm; Nguyễn Ái Quốc dọn về số 9 Ngõ Compoint, Phan Văn Trường đi Mayence, ngôi nhà ở Gobelín bỏ trống. Tuy vậy, về mặt tình cảm, họ vẫn kính trọng nhau và duy trì quan hệ với nhau hết sức tốt đẹp.
Thực tế đó cho thấy, Nguyễn Ái Quốc đã đi theo một con đường riêng, xu hướng thiên tả của anh được bộc lộ rõ ràng và mạnh mẽ trong hoạt động cũng như trong các bài viết, điều đó làm cho một số người e ngại. Phan Châu Trinh nhận xét về anh Thành là còn quá trẻ và có bầu máu quá nóng; Khánh Ký thì cho là do hoạt động của Nguyễn Ái Quốc mà cảnh sát đã làm rầy rà cho những người An Nam ở số 6 villa des Gobelins (mật báo của Devèze ngày 27/12/1920). Có thể nói, từ khi gia nhập Đảng Xã hội Pháp năm 1919, rồi sau Đại hội Tours (tháng 12/1920), trở thành người cộng sản, bút danh Nguyễn Ái Quốc ký dưới những bái báo có xu hướng xã hội chủ nghĩa, thường hay nhắc đến Quốc tế Cộng sản, đã trở thành bút danh riêng của Nguyễn Tất Thành. Đó là điều dễ thấy, không ai có thể xuyên tạc được.
4. VỀ TÁC PHẨM ĐÔNG DƯƠNG VÀ BẢN ÁN CHẾ ĐỘ THỰC DÂN PHÁP
4.1. Trong bài viết của mình, Thụy Khuê có nói đến cuốn La France en Indochine của Nguyễn An Ninh được viết và xuất bản tại Pháp tháng 4/1925, nhưng thừa nhận nay không còn dấu tích (nghĩa là Thụy Khuê cũng chưa từng nhìn thấy, chưa nói là từng đọc), chỉ còn bài viết La France et l’Indochine của ông đăng trên Europe, số 31, ra ngày 15/7/1925 cho ta biết tư tưởng đấu tranh của Nguyễn An Ninh. Thế mà Thụy Khuê đã vội phỏng đoán một cách hồ đồ rằng: “Cuốn sách mang tên Đông Dương (1923-1924) được dịch và đưa vào Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, phải chăng đây chính là tác phẩm La France en Indochine mà Nguyễn An Ninh đã cho in năm 1925?” (sic!).
Để tránh những kết luận liều lĩnh như trên, tôi khuyên Thụy Khuê nên đến Trung tâm lưu trữ tư liệu lịch sử Nga, vào phòng Quốc tế cộng sản, mở cặp tư liệu về Nguyễn Ái Quốc, đọc Hồ sơ số 7, sẽ thấy bản thảo bút tích, đánh máy tiếng Pháp, cuốn sách nhỏ nhan đề Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc được lưu tại đó. Trang bìa in nền hoa văn, có chữ viết tay của thủ thư bằng tiếng Nga, dịch ra như sau:
ĐÔNG DƯƠNG
Dự thảo cuốn sách nhỏ của đồng chí Quốc
(1923-1924)
Dự thảo có 18 bài, gồm 82 trang đánh máy tiếng Pháp, với các đề mục như sau: 1. Sa géographie. Les classes. L’histoire; 2. Sa vie économique; 3. Les méfaits du militarisme; 4. Les atrocités de la civilisation; 5. Mentalité coloniale; 6. Les administrateurs; 7. Parasitisme et pétaudière; 8. Le consortium des bandits; 9. Concessions et concessionnaires; 10. Les travaux publics; 11. Corvées ou travaux forces; 12. L’obscurantisme; 13. La presse; 14. Les impôts; 15. La résistance; 16. L’Eglise; 17. La Justice; 18. L’Annam vu par les français.
Đọc qua, người đọc có thể thấy ngay tên một số đề mục có sự trùng hợp với tên một số chương của Bản án chế độ thực dân Pháp, có điều cuốn Đông Dương chỉ giới hạn tố cáo tội ác chế độ thực dân trong phạm vi xứ Đông Dương, còn Bản án đã được tác giả bổ sung và phát triển, mở rộng sự tố cáo ra các thuộc địa Á - Phi khác thành một tác phẩm đầy đặn hơn. Ông D. Hémery đã cho rằng Đông Dương chính là tiền thân của tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp.
4.2. Trước khi đề cập đến tác phẩm Bản án, tưởng cũng nên nói qua về những bài viết trên báo Le Paria. Vẫn quen lối nói bất cần khảo chứng, Thụy Khuê cứ tùy tiện nói bừa: “những bài xuất hiện trên báo Le Paria và L’Humanité, phần lớn là của Nguyễn Thế Truyền; những bài trên Le Libertaire, phần lớn là của Nguyễn An Ninh; những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, từ 1923 đến 1927, trên Le Paria và trên Inprékorr, báo Nga ấn bản Pháp ngữ, cũng của Nguyễn Thế Truyền” (sic)! “Nói có sách, mách có chứng”, yêu cầu đó đối với người Việt Nam, ngay cả trẻ con, ai cũng đều biết cả. Nhưng vì quá hăng hái “lập công” nên Thụy Khuê đã liều lĩnh nói bừa, vì vậy cũng chẳng đánh lừa được ai!
Cần nhắc lại rằng báo Le Paria do Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập, trực tiếp làm chủ nhiệm kiêm chủ bút và viết chính, số đầu ra ngày 1/4/1922, ngay trong số 1 đã có giới thiệu về số 2: đón đọc bài “Động vật học” được viết rất hay của Nguyễn Ái Quốc, photographe - (chữ thợ ảnh được chú thích đàng hoàng như một chức danh, đó là bài viết của một thợ ảnh chứ không phải của một avocat hay licencié nào).
Còn Nguyễn Thế Truyền, như đã nói ở trên, mãi cuối năm 1922 mới kết thân với Nguyễn Ái Quốc và tham gia cộng tác với Le Paria, khi đó bút danh Nguyễn Ái Quốc từ lâu đã trở thành tên riêng của Nguyễn Tất Thành rồi. Trong 38 số báo Le Paria, có tới 37 bài của Nguyễn Ái Quốc, không kể bài dịch, với văn phong giản dị, thiết thực nhưng không kém phần trào lộng tinh tế, châm biếm sắc sảo, dồi dào tình cảm cách mạng và có tính chiến đấu cao, không thể trộn lẫn được. Chính nội dung những bài viết này, sau đã được Nguyễn Ái Quốc sử dụng lại, đưa vào tác phẩm “Bản án”.
Có điều lạ là Thụy Khuê đều vơ tất cả các bài trên Le Paria và trên các báo khác về cho Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh mà lại gạt Phan Văn Trường ra? Nên nhớ, mãi đến 6/12/1923, ông Phan Văn Trường mới lên tàu về nước. Dưới một bút danh mới là PHAN, ông đã viết nhiều bài cho Le Paria, theo GS Nguyễn Phan Quang, trong cuốn Luật sư Phan Văn Trường [12], các bài đó được đăng trên Le Paria các số: 11, 12, 13, 14, 16, 18-19, 21,… trong các năm 1922 - 1923.
Đối với tác phẩm Bản án, lúc đầu, Thụy Khuê khẳng định rằng đó là của Nguyễn Thế Truyền, sau có lẽ thấy nói thế không thuyết phục được ai, nên đổi giọng: “có thể được coi là một sáng tác tập thể, mà Nguyễn Thế Truyền làm chủ biên và viết lời giới thiệu”.

Nguyễn Tất Thành năm 1911. Ảnh: TL.
Thụy Khuê dẫn thêm một câu của Trần Dân Tiên: “Ông Nguyễn chỉ viết một cuốn sách duy nhất là quyển Bản án chế độ thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia”, để rồi lu loa lên rằng: viết như thế “chứng tỏ ông chưa đọc Bản án chế độ thực dân Pháp vì “chẳng có cuốn sách nào của người Pháp lại viết về tội ác của một thành phần dân tộc mình, như thế, lưu trong thư viện để ông chép lại”(sic)!
Ô hay! Thật kỳ lạ cho tư duy của một nhà phê bình! Chẳng lẽ ở Pháp, Thụy Khuê chỉ quen biết với toàn những tên thực dân mà quên rằng nước Pháp còn là quê hương của lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, của những người xã hội và cộng sản, của những trí thức chân chính theo đuổi lý tưởng nhân đạo và chính nghĩa, như J. Jaurès, A. France, M. Cachin, Vigné D’Octon và rất nhiều người khác nữa. Họ viết sách, viết báo lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân, bênh vực các dân tộc thuộc địa; Nguyễn Ái Quốc trích dẫn họ như là một cách dùng “gậy ông đập lưng ông” thì có gì là lạ? Đây là dụng ý của Nguyễn Ái Quốc, được mật thám Jean ghi lại và đưa vào mật báo ngày 19/1/1920: “Tôi không muốn tự mình viết lấy, vì như thế không có giá trị trung thực. Tôi sẽ dùng những đoạn văn trong số sách đã viết về thực dân Pháp. Tôi sẽ cố gắng làm cho đậm nét những đoạn ấy” [13].
Có thể thấy, chính Thụy Khuê chưa đọc, hơn nữa có thể còn chưa được nhìn thấy tác phẩm Bản án chế độ thực dân Phápcủa Nguyễn Ái Quốc được xuất bản năm 1925 (hay 1926?) tại Paris, nếu được nhìn qua thôi, chắc không dám liều lĩnh nói sách này là của Nguyễn Thế Truyền hoặc do ông Truyền làm chủ biên, đơn giản là vì ngay trước trang bìa bên trong, sách đã in trang trọngảnh chân dung tác giả của nó là: Nguyễn Ái Quốc! Một điều cũng hiếm thấy ở phương Tây lúc bấy giờ. Chính Nguyễn Thế Truyền trong Lời giới thiệu cũng viết: chúng tôi sẽ lần lượt đưa ra những bản án của các dân tộc là thuộc địa của Pháp trong một loạt các tập sách nhỏ mà mở đầu bằng bản án của một người An Nam: Nguyễn Ái Quốc.
Đề cập đến vấn đề tác giả của Bản án, ông Đặng Hữu Thụ, vốn người Hành Thiện, tác giả cuốn sách khá đầy đặn về Thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, cho biết: “Trước khi đi Mạc Tư Khoa, ông Nguyễn Ái Quốc có viết cuốn sách lên án chế độ thực dân Pháp bằng Pháp ngữ. Ông có giao bản thảo sách cho ông Nguyễn Thế Truyền nhờ sửa chữa lại bản thảo, đề tựa và cho in tại Pháp. Sách được in năm 1926 tại Paris, có bài tựa của ông Nguyễn Thế Truyền” (tr.120). Ông Truyền nhờ ông Bửu Nghi, du học ở Pháp, là bạn thân của ông Truyền, sửa dùm các lỗi chính tả, văn phạm, lời văn; sau ông Truyền xem lại, sửa chữa lần nữa, gọt giũa câu văn, viết lại nhiều câu ý tưởng còn thiếu mạch lạc, trước khi trao cho nhà in (tr.123-124). Ông Thụ kết luận: “Vậy tác giả cuốn sách trên là ông Nguyễn Ái Quốc” (tr.125).
Thụy Khuê chắc đã đọc kỹ cuốn sách này vì đã đôi lần trích ý kiến Đặng Hữu Thụ trong bài của mình, nhưng đến đoạn này lại lờ đi không nhắc đến chỉ vì nó không có lợi cho dụng tâm đang muốn thực thi. Cách trích dẫn của Thụy Khuê là như vậy, nhiều khi cố tình cắt xén, cốt sao đạt được ý đồ của mình. Bản Việt Nam yêu cầu ca được Nguyễn Ái Quốc chuyển thành văn vần để cho những người ít chữ dễ thuộc, dễ nhớ, nhưng không thể đưa in vì ở Pháp lúc đó không có chữ in Quốc ngữ có dấu, nên Nguyễn Tất Thành phải viết tay, làm bản chụp rồi in ra. Bài ca viết theo thể lục bát, bản phô-tô trong sách của Thu Trang cho thấy Nguyễn Ái Quốc viết liền 2 câu 6/8 cùng 1 dòng. Thụy Khuê chỉ chép lại trong bài viết của mình toàn các câu 6, bỏ các câu 8, làm cho nó trở nên ngô nghê, chẳng còn vần điệu gì, cốt để hạ một câu: Nguyễn Tất Thành do sớm bỏ học, nên tiếng Pháp sơ sài, Quốc ngữ cũng kém!
Vở kịch Le Dragon en bambou (chứ không phải de bambou như Thụy Khuê viết) cũng đuợc gán cho là của Nguyễn An Ninh mà không đưa ra được chứng lý nào. Chúng ta được biết, Nguyễn Ái Quốc không chỉ viết báo chính luận mà còn sử dụng các loại hình nghệ thuật khác như truyện, ký, kịch, tranh biếm họa để phục vụ cho tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân. Tháng 5/1922, Chính phủ Pháp mở Hội chợ triển lãm thuộc địa tại thành phố Marseille để khoe công lao khai hóa thuộc địa và có mời vua bù nhìn Khải Định sang dự để khoe như một món hàng triển lãm. Sự kiện này làm cho những người Việt Nam yêu nước có mặt ở Pháp cảm thấy bị sỉ nhục. Một chiến dịch phản đối bùng lên, phê phán mạnh mẽ tên vua bù nhìn ươn hèn, ăn chơi trác táng.
Phan Châu Trinh viết Thất điều thư, Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài báo và truyện ngắn châm biếm Khải Định, trong đó có vở kịch ba hồi Con rồng tre (trước đó ông đã diễn thuyết về đề tài Sân khấu Việt Nam tại CLB Faubourg buổi sinh hoạt tháng 4/1922). Vở kịch được nhóm Faubourg đem công diễn và đã được khán giả nhiệt liệt hoan nghênh. Điều này được chính Léo Poldès, một trí thức phái tả, là chủ nhiệm CLB Faubourg thời bấy giờ thừa nhận, trong một bài viết đăng trên Tuần báo Ici Paris số 53, ra ngày 11, 12/6/1946 [14], sau khi được gặp lại Nguyễn Ái Quốc đang thăm chính thức nước Pháp thời gian đó.
Bài viết có đoạn: “Tôi đã đọc tập bản thảo. Thật là hay, thật là đẹp, lời văn vừa chải chuốt vừa gọn gàng với những cái châm biếm dí dỏm kiểu Aristophane… Thật không ngờ rằng 25 năm sau, người thợ ảnh ở ngõ hẻm Compoint, tác giảCon rồng tre, lại trở nên một vị Quốc trưởng với cái tên mới Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa!”.
Đỉnh cao của sự xuyên tạc được gói lại trong phần kết luận của bài viết cuối cùng, trong đó Thụy Khuê đưa ra danh sách những bài báo ký bút danh Nguyễn Ái Quốc từ 1919 đến 1922, tất cả đều được gán cho Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và nhiều nhất là cho Nguyễn Thế Truyền, không có bài nào là của Nguyễn Ái Quốc! Làm một cuộc phủ định sạch trơn như vậy, tác giả muốn nhằm mục đích gì? Thụy Khuê đã vu cáo một cách thâm độc: “Hồ Chí Minh không ngần ngại nhận mình là tác giả những bài viết và những công trình không phải của mình” vì “chính những bài báo đó đã xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh”, “đã xác định tư tưởng Hồ Chí Minh”! “Vì thế, không thể để cho lớp trẻ học mãi những điều mạo nhận”! (sic).
Tuy nhiên, như bạn đọc đã thấy, âm mưu “lật đổ thần tượng” của Thụy Khuê đã thất bại thảm hại. Ở thời đại thông tin phát triển rộng rãi như hiện nay, mọi nguồn lưu trữ đã được bạch hóa, đến những tài liệu được coi là tối mật của Mỹ cũng đã được Wikileaks tung lên mạng, trình độ nhận thức của đa số người đọc ngày nay cũng đã khác xưa; thủ đoạn vu cáo, bịa đặt, xuyên tạc, tung hỏa mù,…của thời chiến tranh lạnh mà Thụy Khuê quen dùng đã trở nên cũ kỹ, rất gây phản cảm cho người đọc. Viết văn, viết báo - dù là tiểu trí thức - thường bao giờ cũng phải lấy sự thật làm đầu, theo đuổi chân lý, chính nghĩa; nếu cứ ngụy tạo một cách trơ trẽn, để lộ một nhân cách tầm thường, thì chẳng đánh lừa được ai.
5. THAY LỜI KẾT LUẬN
Mấy bài báo ở thời kỳ đầu khi Nguyễn Ái Quốc mới bước lên vũ đài chính trị chỉ là số rất nhỏ trong hàng vạn bài báo và tác phẩm Hồ Chí Minh viết sau này, nó chẳng có vai trò như Thụy Khuê suy diễn, nếu như có sự lầm lẫn một đôi bài nào đó thì chính là lỗi ở các sử gia, các nhà sưu tầm, cả Pháp lẫn Việt, chứ không liên quan gì đến Hồ Chí Minh. Huyền thoại Hồ Chí Minh đâu có thể hình thành từ vài bài báo? Đó là sản phẩm của một đời đấu tranh vào sinh ra tử, phải vượt qua bao thử thách hiểm nguy, phải đối phó với bao kẻ thù hung bạo, trong một bối cảnh quốc tế cực kỳ phức tạp, để lèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ độc lập, tự do; đó cũng là sản phẩm của cuộc đời một chính khách trong sạch và liêm khiết có một không hai như Hồ Chí Minh. Đóng góp vào sự hình thành huyền thoại đó còn phải nói đến vai trò của các bạn bè Pháp, kể cả mật thám Pháp, như P. Arnoux,…
Tư tưởng Hồ Chí Minh là cả một hệ thống quan điểm về con đường cách mạng Việt Nam từ độc lập dân tộc đi tới xây dựng thành công một nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Tư tưởng đó là kết quả của quá trình học tập, thâu hóa tinh hoa tư tưởng nhân loại, của các vĩ nhân như Khổng tử, Jésus, Marx, Tôn Dật Tiên,… để từ đó thăng hoa lên thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trả lời câu hỏi của một phóng viên: ông là ai, theo chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa Tôn Dật Tiên? Hồ Chí Minh từng trả lời: “Tôi vẫn là tôi ngày trước - một người yêu nước. Tôi hiến dâng cả đời tôi cho Tổ quốc tôi”. Tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã kết tụ đầy đủ lý tưởng, bản chất, mục tiêu chiến đấu, phẩm chất đạo đức của cuộc đời Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh không “vơ vào” cho mình một chút gì cả! Sinh thời, Người thẳng thắn từ chối mọi danh hiệu mà người đời khen tặng. Có một nhà văn nước ngoài gọi Người là nhà thơ, Người khoát tay: nhà thơ gì tôi, chẳng qua là trong tù, đi ngang được ba bước, đi dọc được sáu bước, không biết làm gì thì làm thơ, thế thôi. Tôi chỉ là người có chút duyên nợ với báo chí, gọi tôi là nhà cách mạng chuyên nghiệp là đúng nhất. Cũng cần nhắc lại: Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo Việt Nam duy nhất không có huân chương, người không tán thành dựng tượng đồng, bia đá, bảo tàng,… cho mình khi nhân dân còn thiếu bệnh viện, trường học.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức chân chính, vì chính kiến riêng mà phải chịu một cuộc sống đau khổ hơn ba mươi năm, như một kẻ bị trục xuất ra khỏi cộng đồng (Un excommunié). Cuối đời, năm 1989, ông được học trò và người thân mời trở lại thăm nước Pháp, vào đúng lúc sự biến Đông Âu đang xảy ra. Phóng viên báo Le Monde đã phỏng vấn ông. Theo tâm lý thường tình, người ta nghĩ ông sẽ thực hiện “un coup pied de l’âne” (cú đá của con lừa thừa cơ người khác đang gặp khó khăn). Nhưng nhân cách của một trí thức chân chính không cho phép ông hành xử như vậy.
- PV: Ngài thấy chủ nghĩa cộng sản bây giờ thế nào?
- GS Nguyễn Mạnh Tường: Trước hết các ông đừng lẫn lộn chủ nghĩa cộng sản, mà nhiều trí thức Pháp đã coi là hi vọng cuối cùng của loài người, với những người đã thực hiện nó.
- PV: Vậy ngài thấy các lãnh tụ cộng sản thế nào?
- GS NMT: Cũng như vậy, các ông chớ xếp chung các lãnh tụ cộng sản vào một gói. Làm sao có thể đặt ngang hàng Ceaucescu với Hồ Chí Minh? Các ông đều biết Cụ Hồ đến khi chết vẫn chỉ có hai bộ quần áo kaki đã sờn và một đôi dép lốp cao su đã vẹt gót.
- PV: Liệu Việt Nam có như Đông Âu không?
- GS NMT: Đảng cộng sản Việt Nam cũng có những sai lầm, nhưng không ai quên công lớn của Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập, thống nhất, giải phóng dân tộc [15].
Tôi muốn dẫn một người nữa, GS Hoàng Xuân Hãn, một học giả đáng kính, được coi như là lương tâm của trí thức Việt kiều ở hải ngoại. Một phóng viên của Diễn đàn (Paris), trong một lần trao đổi với GS về sự đánh giá của ông đối với công lao của Đảng cộng sản Việt Nam, nhất là của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được nghe ông tâm sự: “Bây giờ lòng người còn phân tán, hận thù còn quá nhiều, nên sự đánh giá còn lệch lạc. Nhưng với con mắt của người nghiên cứu lịch sử dân tộc, bác tin rằng vài chục năm nữa, có lẽ sớm hơn, người ta sẽ nhìn nhận công lao của cụ Hồ”. Rồi ông nói cụ thể hơn: “Cũng những anh thanh niên ấy mà bác đã quan sát, vì đã dạy học họ trong mấy năm, nhưng không tập hợp nhau được, hay tập hợp được cũng chẳng làm nên việc gì, thế mà hôm trước hôm sau, họ thay đổi hẳn”.
Theo lời phóng viên được đối thoại thì ý này của GS Hoàng Xuân Hãn trùng hợp với nhận xét của viên tướng chỉ huy quân đội Nhật ở Đông Dương thời đó, trên đường từ Hà Nội vào Sài Gòn ngay sau ngày 19/8/1945, ông ta cũng nhận thấy “những đôi mắt, những ánh mắt” trên khuôn mặt người Việt Nam chỉ “hôm trước, hôm sau” đã “hoàn toàn khác hẳn” (do GS Vĩnh Sính thuật lại). Sau khi ôn lại những cố gắng liên tiếp của các thế hệ cha ông từ cuối thế kỷ XIX, tìm đường giải phóng đất nước mà không thành, GS Hãn kết luận: “Vì chưa bao giờ trong lịch sử của mình, dân ta phải đương đầu với một quốc gia xâm lược mà thế lực, trình độ phát triển, hơn hẳn ta đến như vậy” [16]. Vậy mà cụ Hồ đã thành công. Có lẽ, đó cũng là nhận thức chung của những trí thức Việt kiều có lương tri ở hải ngoại hiện nay.
Hàng chục năm nay, đã có không ít kẻ xấu xa bị thất bại ê chề trong âm mưu “lật đổ thần tượng”. Họ phải biết rằng Hồ Chí Minh, cũng như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,…là những thần tượng muôn đời của dân tộc, nên một vài đứa con lạc bầy, dù có hò hét điên cuồng đến đâu, cũng không thể nào đánh đổ được. Mong rằng Thụy Khuê sẽ không ăn phải đũa của những kẻ “bội tín”, sẽ tiếp bước lớp trí thức tinh hoa ở hải ngoại, có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp đoàn kết, hòa hợp dân tộc và phát triển đất nước.

[1]
Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925 (tr.128) và Nguyễn Ái Quốc tại Paris (1917-1923), tr.47.
[2]
D. Hémery: Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam, Descouvertes Gallimard, Paris, 1990. p. 42.
[3]
Michèle Zecchini: Le Calligraphe (Người viết chữ đẹp). Tạp chí Planète-Action, số 3/1970, p. 24-28.
[4]
Daniel Hémery: Jeunesse d’un colonisé, Genese d’un exil, Ho Chi Minh jusqu’en 1911. Approches-Asie, No 11/1992. Xem phần Documents Annexes, No 15, Déclarations de Nguyen Tat Dat, 19 mars 1920. p. 144.
[5]
Xem D. Hémery: Sđd, phần Documents, các số 6, 7, 9 tr. 131, 132, 134.
[6]
Dẫn lại theo Thu Trang-Gaspard: Ho Chi Minh à Paris, p. 69.
[7]
Dẫn theo Alain Ruscio: “Le délégué de l’Indochine”(Nguyen Ai Quoc), Intervention au Congrès de Tours, 27 décembre 1920, trong cuốn Le Journal L’HUMANITÉ et l’Indochine coloniale 1904-1954 + quelque textes d’Histoire. Về bài phát biểu của Nguyễn Ái Quốc Discours au Congrès de Tours, (extrait du procès-verbal sténographié), xin xem “Hồ Chí Minh - écrits”, Édition en langues étrangères, Hanoi-1976, p.11-13.
[8]
D. Hémery: Ho Chi Minh, De l’Indochine au Viet Nam, sđd, tr. 33.
[9]
Trong Hồi ký 41 năm làm báo, Hồ Hữu Tường có kể: Lúc đầu, các cụ chọn bút hiệu Nguyễn Ố Pháp (có nghĩa là Nguyễn ghét Pháp); bút danh này bị các bạn Pháp phản đối, coi là sô vanh, cực đoan nên mới đổi ra là Nguyễn Ái Quốc. Giai thoại này cần được thẩm tra lại, vì đến nay vẫn chưa tìm được bài báo nào ký bút danh Nguyễn Ố Pháp trên các báo ở Paris trước năm 1919; theo thống kê của A. Ruscio trong “La question coloniale dans L’Humanité (1904 - 2004)”- La Dispute, Paris, 2005, cũng không thấy có. Bút danh này chỉ thấy xuất hiện trên Le Paria các số 31 (11, 12/1924), số 32 (2/3/1925 và số 33 (4/1925). Số kép 36+37 (10, 11/1925), có đưa tin Nguyễn Ố Pháp dự Đại hội lần thứ ba Quốc tế những người lao động trong ngành giáo dục, họp ở Paris sau chuyển sang Bruxellles tháng 8/1925, thời gian này Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường đã về nước, còn Nguyễn Ái Quốc đã rời Paris từ 6/1923 và lúc đó đang ở Quảng Châu.
[10]
Thu Trang (Công Thị Nghĩa): Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Nxb Chính Trị Quốc Gia, H-2002, tr. 94-95.
[11]
Đặng Hữu Thụ: Thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, Paris, 1993, chương I, phần gia thế.
[12]
GS Nguyễn Phan Quang-Phan Văn Hoàng: Luật sư Phan Văn Trường, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1995, tr.78 và 169.
[13]
Dẫn lại theo Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris, sđd, tr.128.
[14]
Léo Poldès: “Le Mystère de Ho Chi Minh”, Ici Paris Hebdo, No 53, 11,12/6/1946.
[15]
Dẫn lại theo Bee.net.vn ngày 4/12/2010.
[16]
Nguyễn Ngọc Giao: Hoàng Xuân Hãn: con người và chính trị, bài đăng Diễn Đàn số 53-54, ngày 6/7/1996.

Sunday 19 May 2013

Ai viết bài ký tên Nguyễn Ái Quấc tại Pháp từ 1919 đến 1923? (Thụy Khuê)


NHÂN VĂN GIAI PHẨM - 
Bài đăng : Chủ nhật 05 Tháng Chín 2010 - Sửa đổi lần cuối Thứ tư 30 Tháng Giêng 2013

Phần XV: Phan Khôi - Chương 1b : Ai viết bài ký tên Nguyễn Ái Quấc tại Pháp từ 1919 đến 1923?

Trang nhất báo Le Paria (Người Cùng Khổ) số tháng 9-10/1925
Trang nhất báo Le Paria (Người Cùng Khổ) số tháng 9-10/1925

Thụy Khuê
Hai gia đình cách mạng đã có công lớn đối với đất nước trong thế kỷ XX, là gia đình cụ Lương Văn Can ở Bắc và cụ Nguyễn An Khương trong Nam. Không những hai cụ là những nhà nho lãnh đạo phong trào Duy Tân và Đông Du ở Bắc và Nam, mà còn là thân phụ của hai người anh hùng hiện đại: Lương Ngọc Quyến và Nguyễn An Ninh, tiêu biểu cho hai khuynh hướng cách mạng: bạo động của Phan Bội Châu và bất bạo động của Phan Châu Trinh.

Nguyễn An Ninh (1900-1943)
Nguyễn An Ninh sinh ngày 5/9/1900 tại Chợ lớn. Là con và cháu của hai nhà cách mạng: Cha là Nguyễn An Khương,chú là Nguyễn An Cư, và cô ruột, đều là những nhà cách mạng. Nguyễn An Khương, đại diện Đông Kinh Nghiã Thục, lập khách sạn Chiêu Nam lầu để tài trợ cho phong trào Duy tân và Đông du. Dịch sách chữ Hán sang tiếng Việt. Viết bài trên Nông Cổ Mím-Đàm kêu gọi lòng yêu nước. Nguyễn An Cư, là nhà văn, nhà nho uyên thâm, thày thuốc Nam nổi tiếng. Gia đình gốc ở Quán Tre, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (Sàigòn).
Nguyễn An Ninh tiếp nhận hai nền giáo dục từ nhỏ: Hán học, do cha và cô ruột dạy và Pháp văn: học trường Sở Cọp (ngang vườn bách thú), rồi trường dòng Taberd, và lycée Chasseloup Laubat. Làm báo tiếng Pháp rất sớm khi vừa xong bằng Brevet Élémentaire (Sơ học). Nổi tiếng bất khuất, chửi Tây, đánh Tây. Thủa nhỏ có tật nói cà lăm, nhưng tự luyện khỏi cà lăm. Khi ở Paris, ngày nghỉ thường ra ngoại ô, vào rừng luyện giọng hàng giờ, sau trở thành nhà diễn thuyết hùng hồn, lôi cuốn. Năm 1916, ra Hà Nội học trường thuốc, sáu tháng sau bỏ thuốc qua Luật. Không đầy một năm sau, Ninh về Sàigòn rồi sang Pháp học tiếp Luật. Đó là năm 1918 (theo Phương Lan-Bùi Thế Mỹ, Hồ Hữu Tường và Lê Văn Thử). "Ninh sang Pháp du học vào năm 1918, lúc Đức Quốc đã thua trận. Đến năm 1920, đã đoạt được bằng Cử Nhân Luật, vào lúc mới 20 tuổi" (Phương Lan- Bùi Thế Mỹ, trang 11)
Hoạt động trong Hội Người An Nam yêu nước và là một trong những cây bút ký tên Nguyễn Ái Quấc của nhóm Ngũ Long.
Về nước mùa thu năm 1922, sau khi đi Âu Châu (Anh và Ý), diễn thuyết nhiều lần tại Hội Khuyến Học Nam Kỳ, đả kích chính sách thực dân, phát huy tinh thần dân chủ, được thanh niên hưởng ứng.
Tháng 3/1923, Nguyễn An Ninh sang Pháp, ở lại nửa năm, dường như chuyến đi này để thuyết phục Phan Văn Trường về nước. Phan Văn Trường rời Pháp ngày 22/12/1923 và đến Sàigòn ngày 21/1/1924.
Đêm 15/10/1923, Nguyễn An Ninh diễn thuyết ở hội Khuyến học Sàigòn, bài Cao Vọng Thanh niên, có tiếng vang lớn, Thống đốc Nam Kỳ gọi Ninh lên cảnh cáo.

Ngày 10/12/1923, phát hành số 1, báo La Cloche fêlée (Chuông rè) do Nguyễn An Ninh sáng lập, Jean de la Bâtie (Lê Văn Thử ghi Dejean de la Bâtie), làm chủ nhiệm. Bâtie sẽ là thày dạy tiếng Pháp cho Phan Khôi. Việc Phan Khôi bị mật thám theo dõi phải lánh xuống Cà Mau ba năm trong khoảng thời gian này, chắc có liên quan tới báo Chuông rè.
La Cloche fêlée là cơ quan ngôn luận đầu tiên chống Pháp công khai và mãnh liệt tại Việt nam. Nguyễn An Ninh viết bài, lên trang, đưa in và tự mình đem báo đi bán. Báo viết tiếng Pháp, đánh thẳng vào các chính sách thực dân.
Đến số 19, ra ngày 14/7/1924, phải tạm ngưng (vì vụ Phạm Hồng Thái ném bom ở Sa Điện, Quảng Châu, giết hụt toàn quyền Merlin ngày 19/6/1924, và một số sự kiện khác, theo Ngô Văn, sđd, trang 50). Theo Lê Văn Thử, phải tạm ngưng vì Thống đốc Cognacq tìm cách đóng cửa tờ báo nhưng không được, bèn sai lính kín hăm dọa chủ nhà in (Lê Văn Thử, Hội Kín Nguyễn An Ninh, Nam Việt, 1949, trang 24).

La Cloche fêlée phải tạm ngưng, Nguyễn An Ninh lại sang Pháp, gặp Nguyễn Thế Truyền đang phụ trách tờ Le Paria và Hội Liên hiệp Thuộc địa. Ninh ở Pháp gần một năm và lần này đón Phan Châu Trinh về nước. Ngô Văn viết:
"Trước khi lên đường ba hôm, Ninh và Trinh tham dự cuộc mít tinh tập hợp hơn 800 người Pháp và Đông Dương tại Khách sạn Hội Bác Học (Hôtel des Sociétes savantes): kết cuộc mít tinh quyết nghị như sau: 
"Những người Pháp và Đông Dương tập hợp ngày 25/5/1925 hồi 21 giờ, do ông Phan Châu Trinh chủ toạ, sau khi nghe các bản tường trình của các ông Nguyễn An Ninh, Diệp Văn Kỳ và Dương Văn Giáo về tình hình chung ở Đông Dương, đã thông qua nghị quyết sau đây để gửi tới chính phủ cộng hoà..." (Ngô Văn, trang 50, trích theo Georges Garos, Forceries humaines, Paris 1926, trang 179). Nội dung bản quyết nghị tương tự như bản Thỉnh nguyện thư 1919 của Phan Văn Trường, thêm vài điều khoản mới, nên chúng tôi không chép lại ở đây.

Ngày 18/5/1925, Phan Châu Trinh và Nguyễn An Ninh lên đường xuống Marseille.
"Phan Châu Trinh đã xuống tàu hôm 28/5/1925 về Sàigòn. (...) Cùng chuyến tàu có tên phiến loạn chống Pháp là Nguyễn An Ninh cùng về. Cũng có quyển France en Indochine [tác phẩm của Nguyễn An Ninh] chống Pháp một cách đáng ghét đã được đem về trong chuyến này. Yêu cầu không được phổ biến quyển sách này. Xin làm mọi cách để ngăn cấm." (Điện tín ký tên André Hesse - do tổng giám đốc cơ quan An Ninh gửi từ Paris sang Hà Nội (Thu Trang, trang 231-232).

Tờ Chuông rè im lặng được 20 tháng, khi Phan Bội Châu bị bắt đưa về Hà Nội, ra toà ngày 23/11/1925 về tội "phiến loạn", Nguyễn An Ninh tung trở lại tờ Chuông rè ngày 25/11/1925, phát động chiến dịch bảo vệ Phan Bội Châu (cùng với Đông Pháp Thời Báo) và bên Pháp Nguyễn Thế Truyền lập tức vận động Hội Liên hiệp Thuộc địa; tổ chức mít tinh lớn tại Hội trường Hội Bác Học ngày 9/10/1925; ứng khẩu diễn thuyết hùng hồn cảm động và viết trọn hai số Le Paria 36 và 37 về Phan Bội Châu. (ĐHT, trang 56-57).
Toàn quyền Varenne phải thả Phan Bội Châu ngày 24/12/1925, đưa về an trí ở Huế.
Đầu năm 1927, Ninh sang Pháp và lần này đón Nguyễn Thế Truyền về nước.

Nguyễn An Ninh: Năm lần bị bắt và bị cầm tù 
1- Lần thứ nhất: 20/3/1926, bị bắt, bị kết án 18 tháng tù, vì tội phá rối trị an, viết báo Chuông rèvà truyền đơn xúi dân làm loạn, tổ chức mít tinh tại Xóm Lách, Vườn Xoài (tổ chức chứ không tham dự, vì bị bắt từ hôm trước), ở nhà bà Đốc Phủ Tài, dì ruột của Ninh, đưa ra bản quyết nghị có ba ngàn người biểu quyết, đòi tám điểm, tương tự như Bản Thỉnh Nguyện của Phan Văn Trường tại Hội nghị Hoà bình Versailles năm 1919.
Phan Châu Trinh mất ngày 24/3/1926. Tổ chức đám tang Phan Châu Trinh do Ninh và Phan Khôi đảm trách, nhưng Ninh bị bắt ba ngày trước đó (chúng tôi sẽ nói rõ hơn trong phần thứ nhì, viết về Phan Khôi).
Ngày 7/1/1927, được ân xá, Ninh xin sang Pháp, liên lạc các nhóm đấu tranh ở Pháp và mời Nguyễn Thế Truyền về nước (Phương Lan- Bùi Thế Mỹ, trang 177). Ngày 7/12/1927 Nguyễn Thế Truyền và gia đình, cùng Nguyễn An Ninh lên tàu Chantilly, từ Marseille về Sàigòn.

2- Lần thứ nhì: tháng 9/1928, bị kết án ba năm tù vì tội lập Hội Kín Nguyễn An Ninh, dính líu gần 500 người bị bắt vì tội "đảng viên". Phan văn Hùm cũng bị tù, được thả, viết cuốn sách nổi tiếng Ngồi tù khám lớn. Đến cuối năm 1930, Ninh được thả.

3- Lần thứ ba: 4/1936, bị bắt về tội viết báo La lutte (Tranh đấu) (quy tụ nhóm: Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Lê Văn Thử, Phan Văn Hùm) phá rối trị an, bị kết án 18 tháng tù, cùng với Tạ Thu Thâu, Nguyễn Văn Tạo. Tuyệt thực. Tháng 11/1936 được thả.

4- Lần thứ tư: 7/37 bị bắt trở lại, kết án 5 năm tù ở, 5 năm biệt xứ, về tội tổ chức biểu tình ở quận Càn Long "xúi giục dân chúng nổi loạn". Tháng 1/1939 được ân xá.

5- Lần thứ năm: Ngày 5/10/1939, đệ nhị thế chiến bùng nổ, bị bắt cùng với nhiều nhà chính trị khác đủ các khuynh hướng. Ninh bị kết tội phá rối trị an bằng cách hành động trong những cơ quan bí mật, tiếp xúc và xúi giục nông dân, thợ thuyền nổi lên chống chính phủ Pháp. Bị kết án:5 năm tù. 10 năm biệt xứ và mất quyền công dân.  Lần này, không thoát khỏi tử thần, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh mất tại Côn Đảo ngày 14/8/1943, ở tuổi 43. (Theo Phương Lan-Bùi Thế Mỹ)

Bài diễn thuyết Cao vọng thanh niên tại hội Khuyến học Sàigòn, đêm 15/10/1923 đánh dấu sự thành công đầu tiên của Nguyễn An Ninh như một nhà trí thức ái quốc (23 tuổi) "mở màn cho cao trào cách mạng, mở mang dân trí, dân sinh, dân quyền, dân chủ cho nòi giống Việt" như Phương Lan Bùi Thế Mỹ nhận xét (Phương Lan Bùi Thế Mỹ, trang 12). Bài diễn văn này, và các bài viết trên La cloche fêlée của Nguyễn An Ninh đã ảnh hưởng sâu xa đến lớp trẻ như Hồ Hữu Tường, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu... Họ coi Ninh như thần tượng và noi gương Ninh làm cách mạng chống Pháp, lập đảng Trốt kít. Phan Khôi, dù lớn hơn Ninh 13 tuổi, cũng chịu ảnh hưởng của Ninh (sẽ chứng minh bằng văn bản) trong việc xây dựng một nền quốc học, thoát khỏi ảnh hưởng Khổng Mạnh, gần gụi với tinh thần khoa học Tây phương.

Tại Paris, Ninh vừa làm vừa học: viết bài khảo cứu về Đông Phương học cho các báo, hoặc làm người mẫu cho họa sĩ. Chơi thân với giới văn nghệ sĩ Pháp và nhóm Anarchiste (Vô chính phủ). Để tóc dài. Có lúc Nguyễn An Ninh và Phan Văn Hùm cạo trọc đầu. Khi về nước, viết báo, lên khung, in báo, mặc áo dài, tóc dài, đem báo rao bán trên đường Catinat. Nấu dầu cù là Nguyễn An Ninh đem bán khắp thôn quê kiếm sống và diễn thuyết, nói chuyện với quần chúng đói khổ về tình hình đất nước. Nguyễn An Ninh là khuôn mặt cách mạng độc đáo nhất trong thế kỷ XX.

Tại Paris, hoạt động tích cực trong hội Người An Nam Yêu Nước, trở thành một trong Ngũ long, diễn thuyết và viết báo chống thực dân Pháp. "Tụi Tây ít khi phục bằng cấp (...) Ninh viết français hay lắm, tụi nó lác mắt. Chừng đó mới chịu phục (...) Khởi đầu, Ninh viết trong tờ Le Libertaire [Người tự do tuyệt đối] là cơ quan anarchiste [Vô chính phủ]. Tây nó phục rồi, mới rủ Ninh đứng vào nhóm sáng lập tạp chí Europe (do J.R.Bloch làm giám đốc)... Vào tạp chí Europe, Ninh làm quen với Léon Werth. Sau Ninh rủ Léon Werth qua bên mình. Về Pháp, Léon Werth viết cuốn Cochinchine để ca tụng Ninh là người trí thức độc nhứt kể cả Tây lẫn Việt, mà Werth gặp được ở Nam Kỳ". (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984, trang 13).
"Năm 1922, vào mùa thu, sau khi kết nạp, tìm tòi, học hỏi ở Ý và ở Anh, kết nạp đặng nhiều bạn đồng chí như lãnh tụ Ấn Độ Nerhu, Ninh đã trở về đất nước phổ biến chí hướng phong trào ái quốc, cách mạng với dân tộc. Cái tài quan trọng nhứt là tài diễn thuyết và viết. Ninh đem từ Âu Châu về một lối văn mới, lời ít mà nói nhiều, câu văn gọn không rườm rà dài dòng lê thê mà tối nghiã như lối nhà văn thâm nho." (Phương Lan- Bùi Thế Mỹ, Nguyễn An Ninh, trang 41). Lối viết thẳng và bộc trực này, cũng sẽ là lối viết của Phan Khôi, nhất là trong những văn bản cuối cùng, lối lập luận và văn phong của Phan Khôi về đấu tranh giai cấp có nhiều điểm giống Nguyễn An Ninh. Ninh viết về Đạo Phật, về Nietzsche, dịch 5 chương đầu cuốn Contrat social (Dân ước) của Rousseau... Hành động quyết liệt nhưng tư tưởng trung dung, giao hoà Âu Á. Đó là Nguyễn An Ninh.

Nguyễn An Ninh tỏ lòng ngưỡng mộ đặc biệt Lương Ngọc Quyến, có lẽ cái chết bi tráng của Ngọc Quyến đã gây dấu ấn sâu đậm trong Ninh, khiến sau này Ninh cũng trở nên một nhà cách mạng can trường vào bậc nhất của thế hệ ông. Trong 43 năm sống, một phần ba đời vào tù ra khám, nhưng không hề nhụt chí, tiếp tục tranh đấu bằng ngòi bút cho đến chết.

Với cái nhìn rộng về tình hình thế giới, thâm hiểu cuộc cách mạng bất bạo động của dân Ấn Độ, Nguyễn An Ninh là khuôn mặt cách mạng hiện đại nhất của chúng ta. Một thần tượng trẻ trung, bụi đời, hóm hỉnh. Nhưng Nguyễn An Ninh còn là người anh cả nếu không muốn nói làcha đẻ của phong trào cách mạng thanh niên, chủ yếu nhóm Trốt-kít, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Hữu Tường, Huỳnh Văn Phương... những thanh niên học trường Tây, sử dụng ngôn ngữ Voltaire, dùng tinh thần cách mạng 1789 để chống thực dân Pháp tại Pháp và tại Nam Kỳ, trong suốt 25 năm, từ 1920 đến 1945.

Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh 
Khác hẳn với các nhà cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... Tiểu sử Hồ Chí Minh là một bí mật. Chỗ nào ông muốn viết (hoặc sai người viết), chỗ nào giấu đi hoặc thêm thắt vào, là có chủ đích rõ ràng. Chủ đích đó không phục vụ sự thật, như Phan Bội Châu viết Ngục Trung Thư hay Tự Phán: thật như đếm, sai lầm của mình cũng viết, ý kiến nào do Nguyễn Thành hay Lương Khải Siêu nghĩ ra cũng nói rõ.
Hồ Chí Minh không ngần ngại nhận mình là tác giả những bài viết và những công trình không phải của ông. Đó là sự cách biệt sâu xa về nhân cách giữa hai nhà cách mạng. Lời Phan Khôi dặn con: "Khi con gái của Mác hỏi cha thích tính gì nhất? Mác đã trả lời: tính thật thà!" (Phan Thị Thái, Nhớ cha tôi học giả Phan Khôi, Kiến thức ngày nay, tháng 12/1996), là một chúc thư mà cũng là một lời cảnh cáo Hồ Chí Minh về toàn diện lịch sử mờ ám của ông.
Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ chú ý đến thời kỳ Nguyễn Tất Thành ở Pháp, từ 1919 đến1923. Thời gian này, ông tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và chính những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc đã xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh.
 
1- Nghi vấn thứ nhất: năm sinh?

Cuối lá thư viết tay ở Marseille ngày 15/9/1911, gửi cho Tổng thống Pháp, xin vào học trường Thuộc địa, có ghi sinh năm 1892 ở Vinh. Một mật báo ghi Nguyễn sinh ngày 24/1/1892. Một mật báo khác, ghi 15/1/1894. Trong hộ chiếu vào Nga năm 1923, theo Hồng Hà, ghi 15/1/1895. Còn ngày sinh chính thức 19/5/1890, có từ năm 1946, có thể lấy ngày thành lập Việt Minh. [Theo Nguyễn Thế Anh, L'itinéraire polytique de Ho Chi Minh, trong cuốn Ho Chi Minh, L'homme et son héritage, Đường Mới, Paris, 1990].
Những sử gia Pháp, như Hémery cho rằng: năm sinh chính thức 1890 (thay vì 1895 hay 1898), chỉ có mục đích phục vụ huyền thoại: 1890 tính đến 1945 là ngoại ngũ tuần, đáng được gọi bằng Bác. Năm Nguyễn Tất Thành từ Anh sang Pháp cũng thế, theo Hémery, Nguyễn Tất thành đến Pháp năm 1919. Nhưng lại chính thức chọn năm 1917, vì có những mốc lịch sử gắn liền: những cuộc binh biến trong quân đội Pháp và cuộc cách mạng tháng 10 của Nga. (Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, Presses Sciences Po, 2000, trang15).

Tiểu sử chính thức Hồ Chí Minh, được rút từ những cuốn hồi ký do chính ông viết hoặc sai người viết: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch của Trần Dân Tiên, bản đầu tiên viết mùa xuân năm 1948 bằng chữ Hán, in ở Thượng Hải năm 1949. Dịch và in ở Hà Nội năm 1958. Cuốn thứ nhì: Vừa đi đường vừa kể chuyện của T. Lan, in năm 1963(T. Lan làmột trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh sau 1951, theo Bùi Tín, ông rút ngắn bí danh Trần Thái Lan của Nguyễn Thị Minh Khai khi hoạt động ở Hương Cảng và Quảng Đông). Cuốn thứ ba: Thời thanh niên của Bác Hồ, của Hồng Hà, nxb Thanh Niên, 1976. Cuốn của Trần Dân Tiên có một số đoạn tương đối thành thực. Cuốn của Hồng Hà, đầy đủ và logique hơn, nhưng có những đoạn bớt đi hoặc thêm vào, lộ liễu, cốt để nâng cao giá trị thần tượng.

Trong thời gian 1911-1923, cuộc đời Nguyễn Tất Thành, có thể đã diễn ra như sau :
Ngày 4/6/1911, Nguyễn Tất Thành rời Sàigòn trên tàu L'Amiral Latouche-Tréville, trọng tải 6000 tấn, chạy đường Sàigòn-Dunkerque, làm phụ bếp, lấy tên là Văn Ba. Tháng 9, tới Marseille, gửi thư cho Tổng Thống Pháp xin vào học trường Thuộc Địa. Rồi lại theo tàu về Le Havre. Làm việc nhà cho ông chủ tàu ở Sainte Adresse ngoại ô Le Havre, độ một tháng rồi lại tiếp tục lên tàu đi Phi Châu.

Từ 1912 tới mùa hè 1914, vẫn dùng tên Ba, làm bồi, phụ bếp, hoặc khuân vác trên những tàu xuyên Đại Tây Dương, chạy đường Le Havre – Londres - New York, hoặc Châu Phi - Châu Mỹ. Từ 1914-1919, bỏ việc bồi bếp trên tàu, sống tại Luân Đôn với tên Nguyễn Tất Thành, ở số 8 Tottenham Road. (Theo Hémery, trong thế chiến, Tất Thành tránh sang Pháp vì ngại có thể bị gọi đi quân dịch). Làm việc tại khách sạn Carlton, rửa bát, rồi phụ bếp. Học tiếng Anh và hình như buổi tối có học thêm Máy móc (Mécanique) và Điện. Trao đổi thư từ thường xuyên với Phan Châu Trinh, bằng Hán văn. Khoảng tháng 5-6/1919, sang Paris. Hoạt động trong Hội Người An Nam Yêu Nước.

Ngày 27/12/1920, khai mạc hội nghị Tours của đảng Xã hội (SFIO), xuất hiện công khai với tên Nguyễn Ái Quốc.
Ngày13/6/1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật đi Nga, tới Moscou ngày 30/6/1923.
Tháng 2/1925, Lý Thụy xuất hiện ở Quảng Đông -tình báo Trung Hoa nhận diện là Nguyễn Ái Quốc- Thành lập Việt nam Thanh niên Cách mệnh Đồng chí hội.

Nghi vấn thứ nhì: Trình độ học vấn

Theo năm sinh chính thức 1890, thì 1911, khi xuống tàu đi Pháp, Tất Thành 21 tuổi.
Từ điển Văn học và các tiểu sử chính thức đều ghi: thủa nhỏ học chữ Hán rồi chữ quốc ngữ, sau vào Quốc Học Huế. Đầu năm 1911, bỏ học, vào Phan Thiết dạy ở trường Dục Thanh [trường đầu tiên của phong trào Duy Tân], ít lâu sau vào Sàigon, rồi từ Sàigòn "xuất dương tìm đường cứu nước".
Daniel Hémery viết: "Theo lời khai của của Đạt (anh cả của Thành) với Sở Mật thám năm 1920, thì Thành học trường bảo hộ (franco-indigène), dường như Đông Ba, đậu bằng Tiểu học (Certificat d'études primaires). Cả hai ghi tên vào trường Quốc học (...) nhưng Thành học dở dang, bỏ đi làm (khoảng 1909?), làm trợ giáo, lương 8 đồng một tháng, ở trường Dục Thanh tại Phan Thiết."Daniel Hémery, Ho Chi Minh De L'Indochine au VietNam, Gallimard 1990, trang 32-33).
Hémery ghi rõ học trường Pháp-Việt và còn đậu cả bằng Certificat d'études primaires.
Nếu những chi tiết trên đây đúng, thì Nguyễn Tất Thành đi học đến năm 19 hoặc 21 tuổi, và nếu có cả Certificat d'études primaires tất phải biết tiếng Pháp.

Nhưng Trần Dân Tiên (Hồ Chí Minh) lại đưa ra những chứng cớ trái ngược, như sau: Ở trên tàu Latouche-Tréville "mỗi ngày anh Ba phải làm từ 4 giờ sáng", "công việc kéo dài suốt ngày", "suốt ngày anh Ba đẫm nước, hơi và mồ hôi, mình đầy bụi than", buổi tối có hai người lính giải ngũ, về Pháp, tốt bụng, "dạy cho anh đọc và viết" (TDT, trang 15-16-17)
Khi làm vườn cho ông chủ tàu ở Sainte Adresse, thì "anh học tiếng Pháp với cô sen" (TDT, trang 20).
Không có lý gì mà Hồ Chí Minh viết sai về chuyện này, nhất là ông lập lại việc khi đến Pháp ông không thạo tiếng Pháp, không viết được tiếng Pháp, phải nhờ Phan Văn Trường viết hộ.
Vậy vần đề học vấn của Nguyễn Tất Thành, phần chữ Hán là chắc chắn, vì cha là Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, bạn học của Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh... Còn việc học ở các trường Đông Ba, Quốc học, dường như không lấy gì làm chắc lắm.


Nghi vấn thứ ba: Nguyễn Tất thành đến Paris năm nào?

1- Trong thời gian ở Luân Đôn, Nguyễn Tất Thành trao đổi thư từ thường xuyên với Phan Châu Trinh, gọi cụ Phan là Hy Mã nghi bá đại nhơn (Hy Mã là tên hiệu của Phan Châu Trinh, nghi bá là bác kính) và tự xưng là cuồng điệt Nguyễn Tất Thành (cuồng điệt là người cháu hăng say). Vì Phan Châu Trinh bị theo dõi rất kỹ, loạt thư này không qua mắt được mật thám, đó là một trong những lý do xác định khoảng thời gian 1914-1918, Nguyễn Tất Thành sống ở Luân Đôn. 
2- Mật báo tìm thấy thẻ thư viện mang tên Nguyễn Ái Quốc, ghi năm 1919. (Thu Trang, Rapport ký tên Jean, in trong phần Phụ lục).

3- Nhưng Hồ Chí Minh tuyên bố khác hẳn, dưới ngòi bút Trần Dân Tiên, ông viết:
Thế giới đại chiến bùng nổ. (....) Anh Ba đến nói với tôi: "Xin từ biệt anh Nam"
- Anh đi đâu?
Tôi đi Pháp (...)
Sau khi rời Luân Đôn, anh Ba viết thư cho tôi. Đại ý thế này:
"Tôi đã gặp nhà ái quốc Phan Châu Trinh. (...) Tôi cũng gặp luật sư Phan Văn Trường và những người khác. Tôi nói với họ: Trong khi vua Duy Tân nổi dậy ở Huế, nhân dân Thái Nguyên và nhiều nơi khác khởi nghiã, thì chúng ta phải làm gì chứ?" (TDT, trang 30-31)

Mâu thuẫn: Đại chiến thứ nhất bùng nổ năm 1914. Vua Duy Tân nổi dậy, 1916 và khởi nghiã Thái Nguyên, 1917. Vậy nếu Tất Thành sang Paris khi đại chiến bùng nổ (1914) thì làm sao đã biết được những biến cố xẩy ra năm 1916 và 1917?
Có lẽ Hồ Chí Minh dùng năm 1914, chỉ với hậu ý muốn chứng minh chính mình đã dựng nên hội Người An Nam yêu nước, chính mình là tác giả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc, chính mình chủ động đưa ra ý kiến về bản Thỉnh Nguyện ở Hội nghị Hoà Bình Versailles, năm 1919, và việc mình viết được những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc là do đã ở Pháp từ 1914 và hết sức cố gắng học tiếng Pháp.

Trần Dân Tiên viết về Hội Nghị Hoà Bình và bản Thỉnh Nguyện thư như sau:
" Họ đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó, người ta thấy có ông Nguyễn Ái Quốc (tức là anh Ba). (...) Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam Yêu Nước ở Pa-ri và ở các tỉnh Pháp. Với danh nghiã của tổ chức này, ông đã đưa những yêu cầu ra trước hội nghị Véc-Xây(...) Cũng nên nhắc lại ý kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra nhưng lại do luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp. Cũng nên nhắc lại là ông Phan Châu Trinh và ông Phan Văn Trường không tán thành hoạt động của nhóm Việt nam Yêu nước, vì các ông ấy cho nhóm thanh niên là trẻ con" (TDT, trang 32)
Trong đoạn này có một câu Hồ Chí Minh nói thật về bản Thỉnh Nguyện thư: luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp.

Và đoạn sau này, cũng rất đáng lưu ý:
"Lúc ấy, ông Nguyễn là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả vì Tổ quốc; nhưng ông Nguyễn lúc đó rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là Công hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng" (TDT, trang 34).
"Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay. Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông Nguyễn đã phải ký tên những bài báo.
"Nhược điểm về tri thức làm ông Nguyễn rất khó chịu. Nhất là ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói. Vì vậy, ông Nguyễn bắt tay vào việc học làm báo.
Thường lui tới toà báo "Dân Chúng", ông làm quen với những người Pháp khác trong đó có chủ bút tờ "Đời sống thợ thuyền". Cũng như ông Lông-ghê, người chủ bút này cũng rất đáng mến. Ông bảo ông Nguyễn viết tin tức cho tờ báo của ông. Biết rằng không thể nhờ ông Trường viết mãi, ông Nguyễn nói thật là mình cón kém tiếng Pháp. Người chủ bút nói: Điều đó không ngại, có thế nào anh viết thế ấy. Tôi sẽ chữa bài của anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài, năm, sáu dòng cũng được". Ông Nguyễn bắt đầu viết rất khó khăn. Tin tức về Việt nam, ông Nguyễn không thiếu. Ông thiếu nhất là văn Pháp (...) Khi thấy viết đã bớt sai lầm, ông chủ bút bảo ông Nguyễn: "Bây giờ anh viết dài hơn một tý, viết độ bảy tám dòng". Ông Nguyễn viết bảy, tám dòng. 
Dần dần, ông Nguyễn có thể viết cả một cột báo và có khi dài hơn. Lúc bấy giờ người chủ bút bạn thân của ông Nguyễn khẽ bảo:"Bây giờ anh viết ngắn lại. Viết từng này hoặc từng này dòng. Không viết dài hơn." (Trần Dân Tiên, trang 35- 36).

Phần thành thật là ông đã công nhận lúc ở Pháp, ông chưa biết gì về chính trị, tiếng Pháp kém và muốn học để tự viết báo lấy. Và cũng lại có chỗ không thành thật, vì ông đã nâng thời điểm ông đến Pháp từ 1919 lên 1914.
Những người dạy tiếng Pháp cho Nguyễn Tất Thành, ngoài Phan Văn Trường, còn có Nguyễn Thế Truyền và có lẽ Nguyễn An Ninh nữa. Nhiều mật báo nói đến việc ngày nào Thành cũng gặp Truyền, có khi mấy tiếng đồng hồ. Nhưng Hồ Chí Minh chỉ nhắc đến Phan Văn Trường mà không nói đến hai người kia vì Nguyễn Thế Truyền sau chống Cộng và Nguyễn An Ninh, vô chính phủ và thân với nhóm Đệ Tứ.

Nguyễn Tất Thành chính thức nhận tên mình là Nguyễn Ái Quấc từ Hội nghị Tours.
Hémery viết "Nguyễn xoay sở để được mời đi dự Đại Hội đảng Xã hội ở Tours, nhân danh đại biểu khu 13 của nhóm Xã hội Đông dương ma (fantomatique). Ngày 27/12 anh phát biểu ủng hộ kiến nghị Cachin-Frossard, ủng hộ việc đảng Xã hội gia nhập Quốc Tế cộng sản" (Hémery, trang 46).
Tại hội nghị Tours (bắt đầu ngày 27/12/1920), Nguyễn Tất Thành xuất hiện công khai dưới tên Nguyễn Ái Quốc "ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì người ta thường nhắc đi nhắc lại những tiếng, những câu: chủ nghiã tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ nghiã xã hội, cách mạng (...) Ông Nguyễn nhức đầu vì khó hiểu" (TDT, trang 46-47). Tuy không hiểu rõ những bàn cãi chính trị trong hội nghị Tours, Nguyễn Tất Thành bỏ phiếu cho Đệ Tam quốc tế vì "Đệ Tam quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ" (TDT, trang 49). Đoạn này ông cũng thành thực, nhưng trong cuốn Hồng Hà sẽ bị bỏ hẳn và thêm vào những trang dài nói là ông đã nghiên cứu kỹ lý thuyết Mác-Lê trước khi dự Hội nghị Tours.

4- Việc Tất Thành sang Pháp năm 1914, khó tin, cho nên khi viết cuốn Thời thanh niên của bác Hồ (nxb Thanh Niên, 1976), Hồng Hà được lệnh sửa lại:
"Anh bỏ nghề phụ bếp ở Luân Đôn, sang Pháp, đấy là vào cuối năm 1917" (Hồng Hà, trang 38)
"Vừa tới Pa-ri, anh Nguyễn Ái Quốc đến ở nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh [6 villa des Gobelins], một phố yên tĩnh của quận 13. Đây là nhà của luật sư Phan Văn Trường. Cùng ở có cụ Phan Châu Trinh mà anh Nguyễn Ái Quốc có thư từ thăm hỏi luôn khi anh còn ở Luân Đôn. Ông Trường nhường cho anh một buồng con trên gác ba, vừa đủ kê một cái bàn, một cái giường và một cái tủ con. Dạo ấy, nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh là một trung tâm gặp gỡ của nhiều Việt kiều ở Pa-ri. Có khi bà con đến chơi ăn ở liền mấy ngày (...) Cụ [Phan Châu Trinh] làm nghề ảnh tư ngay tại nhà số 6. Để sống, anh Nguyễn - cả người Việt lẫn người Pháp quen gọi anh Nguyễn Ái Quốc như thế - cùng với một kiều bào khác là Tuyết giúp việc cho cụ Phan đồng thời học nghề rửa ảnh và phóng đại ảnh. 
Cụ Phan là một nhà yêu nước chân thành, nổi tiếng ở Việt Nam và nước ngoài. Cụ hơn anh Nguyễn 19 tuổi, Còn ông Trường vốn là thông ngôn, học đến tiến sĩ luật học, làm nghề luật sư ở Pa-ri. Ông giỏi tiếng Pháp, vào quốc tịch Pháp, có nghiên cứu chủ nghiã Mác, quen biết nhiều trí thức và nhà chính trị Pháp. Điều mà anh Nguyễn băn khoăn hỏi hai người lúc đó làm gì cho đất nước trong khi đồng bào khao khát cách mạng thì không được trả lời thoả đáng, rõ ràng.
Anh Nguyễn vừa làm nghề rửa ảnh vừa chăm chỉ học thêm tiếng Pháp với ông Trường" (Hồng Hà, trang 19).
Trích đoạn này cho một số thông tin đáng lưu ý. Đặc biệt câu: "Vừa tới Pa-ri, anh Nguyễn Ái Quốc đến ở nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh [6 villa des Gobelins].

Chính câu này đã xác định ngày tháng Nguyễn Tất Thành đến Paris:
Bởi vì căn nhà số 6 villa des Gobelins chỉ có sau khi Phan Văn Trường giải ngũ, tức là từ tháng 4/1919, ông về sống tại Paris, như đã ghi trong hồi ký. Khoảng 1913-1914, Phan Văn Trường ở Rue Bertholet. 1914-1915 đi tù. Và sau khi ra tù, ông làm việc trong Công Binh Xưởng ở Toulouse. Tóm lại, nếu Nguyễn Tất Thành đến Paris ở ngay nhà Phan Văn Trường, thì chỉ có thể là sau tháng 4/1919 (Phan Văn Trường giải ngũ, lên Paris) và trước tháng 6/1919 (Nguyễn Tất Thành đem bản Thỉnh nguyện đến Versailles). 

Vậy, có thể xác định chắc chắn rằng: Nguyễn Tất Thành đến Pháp trong tháng 5 hoặc tháng 6 năm 1919.
Nguyễn Tất Thành ở nhà số 6 villa des Gobelins của Phan Văn Trường hai năm, từ tháng 5- 6/1919, đến ngày 14/7/1921, Thành dọn tới số 9, Impasse Compoint, khu 17 (Hémery, trang 48). Đây là khu phố nghèo dành cho thợ thuyền, Thành tiếp tục nghề ảnh ở một cửa hiệu gần nhà. Ngày 14/3/1923, Thành dọn về trụ sở báo Le Paria (Người cùng khổ), số 3 phố Marché des Patriaches (HH, trang 187).
Khi đã xác định được đúng thời gian Nguyễn Tất Thành ở Pháp. Chúng ta có thể đi sâu hơn nữa vào tổ chức Việt kiều, vào sự phát sinh cái tên Nguyễn Ái Quấc và những công trình Hồ Chí Minh nhận là của ông nhưng lúc đó ông chưa có mặt tại Paris.
 

Hội Đồng Bào Thân Ái (La Fraternité des Compatriotes) 

Phan Văn Trường viết:
"Một ngày trong năm 1912, sau khi đưa đám một thiếu niên An Nam, học sinh trường Parangon [trường Nguyễn Thế Truyền học], một số đồng bào đưa ra ý kiến lập hội Ái hữu Sinh viên An Nam tại Pháp (Association amicale des étudiants annamites en France). Họ đề nghị tôi nghiên cứu dự trình để thực hiện càng sớm càng tốt. Tôi trả lời ngay: "Làm thì dễ, Pháp có luật 1/7/1901, tự do lập hội. Nhưng luật không chưa đủ, còn phải tính đến chính sách thuộc địa nữa. Các bạn nên biết, nếu ta lập hội mà không có phép, chính quyền thuộc địa sẽ tìm cách dẹp ngay." (PVT, trang 87). Tuy nói vậy, nhưng ông cũng làm:
"Tôi bắt tay vào việc. Viết bản nội quy và thảo một chương trình [hành động] dài. Hội được thành lập trong sự hoan hỉ của đồng bào đã giao phó trách nhiệm cho tôi. Tôi yêu mến đặt tên nó là Thân Ái (La Fraternité). Hội có mục đích:
1- Giúp sinh viên Đông Dương xa gia đình có cơ hội gặp gỡ, kết bạn, đến chơi và giúp đỡ nhau trong trường hợp rủi ro, bệnh hoạn. 
2- Học chung với nhau để trao đổi kiến thức khoa học và văn chương.
Hội Thân Ái mỗi tháng tổ chức nhiều cuộc hội họp, và diễn thuyết." (Hồi ký PVT, chương 13, trang 87-88).

Qua sinh hoạt của hội, Phan Văn Trường gặp Phan Châu Trinh năm 1912. Sau này, người ta thường viết Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường lập hội là không đúng. Người lập hội là Phan Văn Trường.
Hội Đồng bào Thân ái là tế bào đầu tiên của người Việt tại Pháp.
Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh, trở thành hai nhà lãnh đạo của phong trào Việt kiều yêu nước tại Pháp. Vì hoạt động của hội, mà Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh bị bắt năm 1914. Hội Đồng bào Thân ái phải ngưng hoạt động. Phan Văn Trường viết:
"Hội hoạt động công khai không mờ ám. Chúng tôi cũng biết là có mật thám trà trộn trong đám hội viên, nhưng không sao, càng tỏ cho họ thấy là hội của chúng tôi theo đuổi những mục đích hoàn toàn hợp pháp và đáng khuyến khích. (...) Bọn mờ ám vẫn rình rập, với thế lực trong chính quyền thực dân, thế nào họ cũng phá. Hội của chúng tôi bị tẩy chay, họ phao tin hội này là ổ cách mạng, gián tiếp cảnh cáo hội viên nếu cứ cứng đầu không chịu bỏ thì có ngày sẽ phải hối hận". (PVT, trang 89).
Theo mật báo của mật thám thì Hội Đồng Bào Thân Áiphải giải tán vào năm 1916 (Thu Trang, trang 43). Tuy nhiên thông tin này chưa chắc đã đúng. Có thể hội phải giải tán sớm hơn, từ khi hai vị thủ lĩnh bị bắt vào tháng 9/1914.
Hội Người An Nam yêu nước ra đời.

Hội Người An Nam Yêu Nước (Le Groupe des Patriotes Annamites) ra đời.
Sự xuất hiện bút hiệu Nguyễn Ái Quấc. 

Về mặt chính thức, Hội Người An Nam Yêu Nướcthành lập sau thế chiến, tức là sau khi Phan Văn Trường giải ngũ trở về Paris vào tháng 4/1919. Căn nhà 6 villa Gobelins, quận 13, của ông trở thành trụ sở của hội, theo mật báo Pháp.
Nhưng về mặt không chính thức, có thể hội đã hình thành rất sớm, tại Toulouse, do Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền thành lập. Phan Văn Trường, sớm để ý đến Nguyễn Thế Truyền, 12 tuổi, được đem về Pháp học, ở trường Parangon, năm 1910. Hai người sau này lại cùng ở Toulouse từ 1916 đến 1919. Thời gian này Phan Văn Trường ở trong quân đội, làm thông ngôn cho lính thợ và Nguyễn Thế Truyền đang học kỹ sư.
Một mật báo cho biết:
"Hội những người An Nam yêu nước đã được thành lập từ nhiều năm nay do hai nhà cách mạng chống Pháp là Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh. Đó là một nhóm hoạt động rất tích cực.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực. Từ hồi hai người trên, Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh, bị bắt vì tội chống an ninh quốc gia vào năm 1915, tuy Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh vẫn giữ vai trò lãnh đạo Hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã chính là do Nguyễn Ái Quốc" (Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Đông nam Á, Paris, 1983, trang 44)
Mật báo này rất quan trọng, vì nó cho biết:

1- Như vậy cái tên Nguyễn Ái Quấc đã xuất hiện trong khoảng 1914-1918, ít nhất là từ 1918.Tức là trước khi Nguyễn Tất Thành sang Paris rất lâu (Tất Thành sang Paris khoảng tháng 5-6/1919, như trên đã chứng minh).

2- Hội Người An Nam Yêu Nước được thành lập trong khoảng 1914-1918. Như vậy, chỉ có thể ở Toulouse, nơi Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền sống từ 1916 đến 1919. Trong thời gian này Phan Văn Trường đã bị buộc tội xúi giục binh lính An Nam làm loạn, viết đơn xin giải ngũ.

3- Ba người gần Ninh nhất là Lê Văn Thử tác giả Hội kín Nguyễn An Ninh (Nam Việt, 1949), Phương Lan Bùi Thế Mỹ-Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh 1899-1943 (Thúy Phương, Sàigòn, 1970) và Hồ Hữu Tường- 41 năm làm báo (Đông Nam Á, Paris, 1984), đều ghi Nguyễn An Ninh sang Pháp lần đầu năm 1918.
Vậy cái tên Nguyễn Ái QuấcQuấc chứ không phải Quốc, là dấu ấn của Ninh. Ninh người Nam, chỉ có người Nam, theo Huỳnh Tịnh Của, mới viết Quấc. Trường và Truyền người Bắc, không viết như thế.

4- Bộ Thuộc địa bắt đầu theo dõi Nguyễn Ái Quấc vào khoảng tháng 10/1919. Báo cáo của Jean, tháng 10/1919, có đoạn sau:
"1- Ông Guesde nói phải, có Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Văn Quốc, người Sàigòn, học ở bên này đã lâu lắm. Song chưa biết tên ấy ở đâu - Phải quen Phan Văn Chường thời mới biết tên ấy được.
2- Xin ông làm ơn hỏi Sureté [An ninh] Paris xem Chường có ở Paris bây giờ không, hay là đi voyage như lời sergent interp. Khương nói và cho tôi chỗ hắn ở (số nhà và phố)" (Thu Trang, trang 54)
Theo báo cáo này, người mật thám tên là Jean, đến tháng 10/1919, chưa xác định được nhân dạng Nguyễn Ái Quốc, lúc thì coi Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn An Ninh [người Sàigòn], khi thìcoi Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Thế Truyền [học ở bên này đã lâu lắm], và chưa biết địa chỉ của Hội người An Nam yêu nước là nhà Phan Văn Trường, số 6 villa des Gobelins.

5- Về hoạt động của nhóm, Daniel Hémery viết:
 "Từ mùa thu năm 1919, Nhóm Những Người Yêu Nước có cột viết trên các báo Popupaire, Humanité, Libertaire, báo của CGT, La vie ouvrière và Le Peuple. Họ diễn thuyết, tổ chức những buổi họp mặt công cộng, với chủ đích bảo vệ quyền lợi Đông Dương trong nền văn chương chống thực dân theo cách của những nhà văn Indonésia (Nam Dương) hay Ấn độ. Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc, theo lời khuyên của Paul Vigné d'Octon là người hết sức chống chế độ thuộc địa, làm việc ráo riết tại thư viện Quốc gia, sửa soạn ra cuốn sách Les Opprimés (Những kẻ bị đàn áp), có thể là sơ thảo văn bản tương lai Procès de la Colonisation, và nghiền ngẫm dự định dịch các tác phẩm tây phương, như L'Esprit des lois [Vạn pháp tinh lý] sang Quốc ngữ." (Hémery, trang 45)
Câu này xác định hoạt động của nhóm Ngũ Long trên báo chí và diễn thuyết. Nhưng Hémery nhầm Nguyễn An Ninh với Nguyễn Tất Thành:
Trong các bài viết và diễn thuyết được ghi lại, Ninh thường nhắc đến kinh nghiệm cần học hỏi của Ấn Độ, Nam Dương. Ninh chơi thân với Paul Vigné d'Octon, nhóm anarchiste và Ninh viết cho báo Le Libertaire. Ninh viết cuốn La France en Indochine chống Pháp mãnh liệt in năm 1924, mang về Việt nam trong chuyến đi với Phan Châu Trinh, bị tịch thu hết sạch (nhưng có thể đọc bài tiểu luận La France et L'indochine đăng trên Europe số 31, ra ngày 15/7/1925 là thấy rõ nội dung). Ninh dịch Contrat social, (Dân ước) của Rousseau và chắc có ý dịch cảL'Esprit des lois [Vạn pháp tinh lý]của Montesquieu nữa. Còn Tất Thành, cuối năm 1919, mới sang Pháp vài tháng, đang học tiếng Pháp, làm sao mà nghĩ đến chuyện viết sách và dịch sách được?

6- Một mật báo khác:
"Vào những năm 1920-1921, Hội những người An Nam yêu nước" đặt trụ sở tại số 6 Villa des Gobelins. Số người lãnh đạo của Hội này, đã từng làm công việc tuyên truyền chống Pháp một cách rất mạnh nói chung, và đặc biệt chống ông Sarraut (toàn quyền Đông Dương) nói riêng. Những người này cho là ông ta đã gây nên nhiều nỗi đau khổ tại nước họ.
Tháng 10/năm 1921, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Khánh Ký, Lê Văn Thuyết và Hai Tân đã quyết định đề nghị ám sát ông Sarraut (...) Nhưng nhờ sự can thiệp của Phan Châu Trinh mà dự án này không đem ra thi hành" (Thu Trang, trang 45)
Những thông tin trong mật báo này khá đúng, trừ việc Phan Văn Trường định ám sát Sarraut là sai. Phan Văn Trường là người rất thận trọng, ghét bạo lực, hành động công khai, ông đối lập với Sarraut bằng luật pháp và ngòi bút, không bằng bạo lực. Nguyễn Thế Truyền có viết bài đả kích Sarraut, sôi nổi hơn Phan Văn Trường.

Tác giả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc là ai ?
Trong thư ngày 27/3/23, cụ thân sinh ra ông Nguyễn Thế Truyền khuyên con:"chớ bắt chước Nguyễn Ái Quốc làm báo nói lăng nhăng, chớ chơi với Nguyễn Ái Quốc" (ĐHT, trang19). Như thế, cái tên Nguyễn Ái Quốc, tuy là tên chungtên ma, nhưng đã thành tên riêng của một người: Nguyễn Tất Thành. Và sự bí mật về việc ai viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quấc gần như toàn diện, đến cả cụ thân sinh ra Nguyễn Thế Truyền cũng không biết con mình viết bài ký tên Nguyễn Ái Quấc!
 
Hồ Chí Minh hiển nhiên nhận mình là Nguyễn Ái Quốc tác giả các bài báo. Nhưng nhiều dữ kiện chứng minh ngược lại.

1- Trước hết, về phiá chính quyền Pháp:
- Ngày 12/9/1923 (sau khi Nguyễn Tất Thành sang Nga), Tổng Thanh Tra quân đội Đông Dương và người Đông Dương gửi thông tri cho Toàn Quyền Đông Dương, có đoạn:
"Les articles publiés sous le nom de Nguyễn Ái Quốc ne sont pas de lui ou ont été tout au moins l'objet des plus sérieures retouches. Cet annamite parle et écrit insuffisament le français pour rédiger tout ce qui paraît sous son nom" (Contrôleur général des troupes indochinois et des Indochinois à Gouverneur général de L'Indochine le 12/9/1923) (Slotfom Série I, Carton II - ĐHT, trang124) (Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc không phải do y viết hoặc đã được sửa chữa rất nhiều. Khả năng nói và viết tiếng Pháp của tay An Nam này không đủ để viết những bài y ký tên).
- Về phía mật thám Pháp: "Về những bài báo, có một vài mật thám đã ghi là do chính Phan Văn Trường viết và ký tên Nguyễn Ái Quốc" (Thu Trang, trang 95)

2- Bất cứ ai cũng thấy là một người mới học tiếng Pháp như Nguyễn Tất Thành không thể viết những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc. Theo Hoàng Xuân Hãn: "bí danh này có thể là tên tượng trưng của tất cả người Việt (Nguyễn là họ thông thường của nhiều người Việt, chứ không phải chỉ là họ của Tất Thành). Nguyễn yêu nước, ba chữ ấy ứng vào tiếng Pháp: Groupes des patriotes Annamites thấy ký ở dưới truyền đơn: Bản yêu cầu tám điểm. Có lẽ một mặt vì họ Nguyễn mà mật thám coi đó là tên của Nguyễn Tất Thành. Rồi sau Nguyễn Tất Thành cũng mang tên ấy một thời gian mà thôi" (Thu Trang, trang 114)

- Về bản Thỉnh nguyện thư gửi Hội nghị Hoà bình năm 1919:
Mật thám ghi:"Bản yêu cầu gửi cho Hội Nghị Hoà bình là do Phan Văn Trường viết. Những điểm yêu sách đã do Phan Châu Trinh dịch sang chữ An Nam" (Thu Trang, 104)
- Còn Hoàng Xuân Hãn cho rằng: Phan Châu Trinh viết phần Hán văn, Phan Văn Trường dịch ra Pháp văn, Nguyễn Tất Thành làm bài lục bát Việt nam yêu cầu ca. (Thu Trang, trang 9).

Nhưng qua văn bản, chúng tôi có thể xác định: Phan Văn Trường viết thẳng phần tiếng Pháp, vì đây là chủ đề một buổi diễn thuyết của ông năm 1913 (Les revendications indigènes - Những thỉnh nguyện của người bản xứ), như đã nói ở trên. Lời văn trong bài phù hợp với lối viết của Phan Văn Trường: Kín đáo, kiêu kỳ, mỉa mai, thâm thuý. Phan Châu Trinh dịch sang Hán Văn. Nguyễn Tất Thành làm bài thơ (đúng hơn là vè). Bài này, Thu Trang chụp được bản chép tay, cho thấy Tất Thành không biết làm thơ và trình độ quốc ngữ còn kém. (Xem phần phụ bản ở dưới, chúng tôi có trích một đoạn).

3- Hồ Hữu Tường là người đầu tiên cho biết về nhóm Ngũ Long, có vài chi tiết sai nhưng đại thể là đúng: "Khi ra rù, hai cụ được Nguyễn Thế Truyền, học xong ở Toulouse lên hiệp tác. Đầu tháng bẩy cụ Tây Hồ móc nối được với Nguyễn Tất Thành, lúc đó ở London, nên viết thơ gọi về Paris. (...), Đến 1918, nhóm nầy lại được Nguyễn An Ninh ở Sài gòn sang nhập bọn. 
Người ngoài cho đó là năm con Rồng, bởi người Việt xưng mình là "con Rồng". Linh hồn của nhóm "Ngũ long" nầy là cụ Phan Châu Trinh. 
Và khi chường ra công chúng, nhứt là khi viết báo chống thực dân, thì ý kiến thường do cụ Tây Hồ xướng ra, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh thảo thành tiếng Pháp, và giao cho Tất Thành đem giao cho nhà báo với một bút hiệu chung. 
Về cái bút hiệu nầy, có một giai thoại kể ra cũng buồn cười. Lúc ban đầu, các cụ chọn bút hiệu là Nguyễn Ố Pháp. Nghiã là thằng Nguyễn ghét người Pháp. Tên nầy được độc giả Pháp hoan nghinh lắm, vì giọng nói dí dỏm của người Việt nam, lại thêm câu văn của Ninh và Truyền gọt giũa nên có duyên. Độc giả gởi thơ đến nhà báo hỏi Nguyễn Ố Pháp là ai và tên ấy có nghiã gì? Các cụ buộc lòng phải dịch cho ngay tình. Các bạn Pháp phản đối cái tên cực đoan dễ ghét, mà tiếng Pháp gọi là sô vanh (chauvin), và đề nghị đổi đi. Từ đó bút hiệu Nguyễn Ố Pháp bị đổi là Nguyễn Ái Quốc. Về sau bốn vị kia tách ra, tên Nguyễn Ái Quốc còn lại riêng cho Hồ Chí Minh". (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984, trang 18-19).

Hồ Hữu Tường kể tiếp một giai thoại khác:
 Bộ trưởng Thuộc địa tống trát đòi "Nguyễn Ái Quốc đến cấp tốc tại Bộ thuộc địa gặp ông bộ trưởng", nhưng lại đem trát giao tận nhà Phan Châu Trinh. Cụ Tây Hồ gọi Tất Thành đến giao tờ trát, Tất Thành cầm trát đến gặp ông bộ trưởng Pháp và câu đầu nói xỏ rằng "Nguyễn Ái Quốc là tôi. May mà trát gởi đến nhà chú tôi là Phan Châu Trinh, nên được chú tôi đưa lại. Không thì lạc mất rồi! (...) Ngày ấy, cụ Tây Hồ xỏ Tây tế nhị xong, xuống chợ Mouffetard mua lòng lợn về mời đủ năm Rồng xơi một tiệc "khải hoàn". (Trang 19-20).

Hồ Hữu Tường viết tiếp về chương trình Ngũ Long về nước hoạt động:
"Theo lời cụ Phan Văn Trường thuật lại, thì năm 1922, khi Nguyễn An Ninh sắp sửa về nhà mà sáng lập tờ báo La Cloche fêlée, thì cụ Phan Châu Trinh có đưa ra một phân công, gọi là "ngũ long tề khởi". Tại quê nhà, bầu không khí thực dân và phong kiến còn quá nặng, Ninh lãnh sứ mạng đem tư tưởng dân quyền của Pháp ra mà "dĩ di diệt di". Nên chi báo của Ninh nêu lên đường lối là "cơ quan tuyên truyền cho tư tưởng Pháp" (organe de propagande des idées françaises). Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Thế Truyền thì tựa vào đảng xã hội, sau biến thành đảng cộng sản, nhưng Thành thì thiên tả mà đi vào lao động, Truyền thì đứng trên lập trường "quốc gia mượn thế lực cộng sản để mưu đồ sự giải phóng dân tộc". 
Còn hai cụ Phan thì chờ Ninh xung phong, dọn dẹp chông gai bên nhà, hai cụ sẽ về góp sức mà tiến lên gây một phong trào dân chủ. Nhưng mà theo kế hoạch nầy, phân ra thì có, mà tụ lại thì chưa. Năm 1925, quả Ninh có rước hai cụ Phan về xứ. Nhưng sang năm 1926, cụ Tây Hồ lìa trần, Ninh lo tổ chức quần chúng, giao cho cụ Trường đứng mũi chịu sào tờ L'Annam. Rồi Ninh vào tù, cụ Trường ba chìm bẩy nổi, bị án tù, sang Paris chịu vào khám.Còn Tất Thành mang tên chung là Nguyễn Ái Quốc, theo cộng sản luôn, một đi không trở lại.
Nguyễn Thế Truyền vào đảng cộng sản Pháp, mượn phương tiện mà thành lập Việt Nam Hồn, sau đổi lại là Hồn Việt nam, rồi Phục Quốc... " (HHT, sđd, trang 24-25).

Về bản Le Procès de la colonisation française (Bản án chế đô thực dân Pháp)
 
Tác giả là Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Thế Truyền viết tựa. Nhưng thực ra ai viết ?

1- Ngô Văn viết:
"Sau khi Phan Châu Trinh khởi hành về Sàigòn, vào tháng 5 năm 1925 một luận văn châm biếm nẩy lửa do Thư điếm Lao động (Librairie du Travail) phát hành và lập tức bị cấm ở Đông Dương. Đó là tập Bản án chế độ thực dân Pháp (Procès de la colonisation française) ký tên Nguyễn Ái Quốc, nhưng có thể là do Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền viết" (Ngô Văn, trang 42).

2- Trần Dân Tiên chỉ viết một câu ngắn gọn về văn bản này:
"Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển: "Bản án chế độ thực dân Pháp"; quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia. Đầy hăng hái, ông Nguyễn viết cả vở kịch "Rồng tre". (Trần Dân Tiên, trang 37)."
Tại sao Hồ chí Minh không nói rõ là ông đã viết Le Procès trong hoàn cảnh nào? Nhất là lại in sau khi ông đi Nga hai năm. Lý do dễ hiểu: có lẽ Hồ Chí Minh chưa đọc Le Procès khi ông viết những dòng này năm 1947, cho nên ông mới viết câu: "quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia".

 3- Vậy tạm đưa ra giả thuyết: Nguyễn Tất Thành không đủ khả năng tiếng Pháp để viết tác phẩm này. Có thể Nguyễn Thế Truyền đã tập hợp những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc, sửa đổi rồi viết tựa. Văn phong trực tiếp, đả kích mạnh mẽ, không thâm trầm kín đáo như văn Phan Văn Trường, vậy tác giả có lẽ là Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền. Tuy nhiên cần phải khảo sát văn bản các bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc, mới có thể xác định được.

4- Còn vở kịch Rồng tre không biết ai viết (có thể là Nguyễn An Ninh), nhưng chắc chắn không phải Tất Thành, vì chữ Rồng ở đây có ý tự trào, ngạo nghễ ám chỉ đám Ngũ Long, tuy là đồ chơi mà... là Rồng, tức là chơi lối... Rồng (Đế vương). Lại vừa có ý nhạo vua Khải Định là Rồng mà...rồng tre (đồ chơi). Ý nghĩa thâm thúy như thế, nhưng chắc ông Hồ không hiểu rõ, nên mới nhận là mình viết. Bởi nếu ông viết thì không thể viết như thế, khác nào lậy ông tôi ở bụi này: đã tự coi mình là Nguyễn Ái Quốc duy nhất, thì làm sao lại chấp nhận có các con Rồng khác?

Hội Liên hiệp thuộc địa (Union Intercoloniale) và báo Le Paria (Người cùng khổ)

Hội Liên hiệp Thuộc địa -là cơ sở quan trọng thứ nhì, đối với người Việt tại Pháp, sau Hội Người An Nam Yêu nước - quy tụ đại diện những nước nhược tiểu bị Pháp đô hộ, họp lại để cùng chống thực dân. Hội ra tờ báo Le Paria (Người cùng khổ).

Trần Dân Tiên viết về vai trò của ông trong tờ báo này như sau:
 "Để mở rộng việc tuyên truyền đến các thuộc địa, ông Nguyễn và các đồng chí của ông ra tờ báo Người cùng khổ (Le paria) do ông là chủ bút kiêm chủ nhiệm (...) Ông Nguyễn kiêm cả viết, chủ nhiệm, chủ bút, chữa bài, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc" (Trần Dân Tiên, trang 44).
Hồng Hà: "Báo Người cùng khổ, cơ quan ngôn luận của vô sản thuộc địa do anh Nguyễn Ái Quốc sáng lập, làm chủ bút kiêm chủ nhiệm, phát hành trong những năm từ 1922 đến 1924"(Hồng Hà, trang 150)
"Anh Nguyễn viết khỏe nhất và nhiều nhất, có số anh viết tới ba, bốn bài. Chính từ đây và từ năm 1922 này, người đọc được thấy những bài báo đầy tính chiến đấu mãnh liệt của anh Nguyễn" (Hồng Hà, trang 156)
Chỉ cần lướt qua tờ Le Paria cũng thấy: đây là tờ báo chống thực dân một cách trào phúng và thâm thúy, kiểu "gậy ông đập lưng ông", phải đủ những điều kiện: có óc châm biếm, có uy-mua Pháp, thâm hiểu văn hoá Pháp và viết tiếng Pháp hay mới viết được. Nguyễn Ái Quấc làm đại diện cho Đông Dương là đúng lắm, vì bút danh Nguyễn Ái Quấc đã nổi tiếng trên báo chí Pháp từ mấy năm nay. Nhưng những bài ký tên Nguyễn Ái Quấc có phải là Tất Thành viết không? Hay chủ yếu vẫn là Thế Truyền, An Ninh, Văn Trường? Trong một bài bênh vực Nguyễn Ái Quấc, Nguyễn Thế Truyền viết: "Tiếng nói của Nguyễn Ái Quốc là tiếng nói của toàn dân Việt Nam" hình như ngụ ý điều đó.

Hội Liên Hiệp thuộc địa (Union intercoloniale) được sáng lập tháng 7/1921, tại Paris. Mỗi thuộc địa có một đại diện trong Ban chấp hành. Trụ sở: số 9 rue Vallette, sau đổi đến số 3 rue Marché des Patriarches.
Tờ báo của hội: Le Paria (Người cùng khổ), ra hàng tháng, dưới sự bảo trợ của nhà văn Henri Barbusse. Báo viết tiếng Pháp, tên in ba thứ chữ: Pháp, Hán và Ả Rập, tồn tại 4 năm, ra được 38 số: số 1, ra ngày 1/4/1922 và số 38 ra ngày 1/4/1926.

Thành phần của Hội khi mới thành lập: Marie Bloncourt, luật sư, đại diện Dahomey (Phi Châu) làm Tổng thư ký. Nguyễn Ái Quốc là đại diện Đông Dương. Jean Baptiste, đại diện Guadeloupe, v.v...
Lúc đầu có độ 200 hội viên. Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh đều là hội viên từ 1922, cả ba đều đã diễn thuyết nhiều lần tại trụ sở của Hội hoặc ở Hội trường hội Bác Học (Salle des Sociétés savantes) đường Danton. Ví dụ, ngày 18/2/1923, Phan Văn Trường diễn thuyết so sánh sự cai trị Việt Nam của Pháp và của Trung Hoa. Nguyễn An Ninh diễn thuyết nhiều lần tại Hội trường hội Bác Học. Ngày 17/10/1924 Nguyễn Thế Truyền diễn thuyết về Đông Dương dưới sự cai trị của Albert Sarraut và Martial Merlin. Mỗi lần Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh diễn thuyết, Phan Châu Trinh đều đến nghe. (Đặng Hữu Thụ, trang 40)

Số 4, tháng 7/1920, báo Le Paria có 2 bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, tựa đề La haine des races vàLes cilivisateurs. Các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc đều có ảnh kèm, bài L'Humanité colonialetrong số 6 (tháng 7/1920) có kèm ảnh những người bị xử bắn, và trong bài báo tác giả mỉa mai ghi: đó là hành động của những con người văn minh.(Thu Trang, trang 144).
Bài đầu tiên ký tên Nguyễn Thế Truyền xuất hiện trên Le Paria, số 9 ra ngày 1/12/1922, tựa đề "Un bolchevick jaune" (Một người Bôn-sơ-vích da vàng), nội dung bênh vực Nguyễn Ái Quấc, bị báo La Dépêche Coloniale (Bản tin thuộc địa) đả kích, trong bài Truyền viết, có câu: "Tiếng nói của Nguyễn Ái Quốc là tiếng nói của toàn dân Việt Nam". (ĐHT, trang 42).

Sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, tên Nguyễn Thế Truyền xuất hiện thay tên Nguyễn Ái Quấc:
Số 21 ra ngày 1/12/1923, bài La vase de Chine (Chiếc bình sứ Trung Hoa), đả kích kịch kiệt bác sĩ Cognacq, nguyên giám đốc học chính Đông dương, về tội hối lộ. Số 22, Nguyễn Thế Truyền nhắc đến lòng yêu nước của Phan Tuấn Phong và Phan Trọng Kiên, anh em ruột của Phan Văn Trường, trong phong trào Đông Du, bị bắt năm 1913. Số 24, đả kích toàn quyền Albert Sarraut đầu độc dân tộc VN bằng rượu và thuốc phiện. Số 27, viết về Phạm Hồng Thái và tiếng bom Sa Điện. Số 28, đả kích Outrey, dân biểu Nam Kỳ, tuyên bố trong quốc hội Pháp không nên áp dụng luật ân xá tại Việt Nam, vì người Việt Nam không biết ân xá là gì. Truyền chê Outrey dốt nát không biết gì vì chín trăm năm trước vua Lý Thánh Tông đã ân xá cho phạm nhân, trong một năm trời làm rét mướt. (ĐHT, trang 43).

Từ ngày 4/11/1923, Nguyễn Thế Truyền thay thế Nguyễn Ái Quốc làm trị sự toà báo. Đầu năm 1925, Nguyễn Thế Truyền trở thành phó tổng thư ký của Hội và chủ bút tờ Le Paria. Trong năm 1925, hầu như số nào cũng có bài của Nguyễn Thế Truyền. Sau số kép 36-37 (tháng 10/1925) toàn bộ viết bài bênh vực Phan Bội Châu, Nguyễn Thế Truyền ra khỏi Le Paria để sửa soạn ra tờ Việt Nam Hồn, tiếng Việt. Không có Nguyễn Thế Truyền, Le Paria chỉ ra được một số chót (số 38, tháng 4/1926) rồi đình bản. (ĐHT, trang 51)

*
Trong thời gian từ 1919 đến 1923, nhóm Ngũ long, qua bút hiệu chung Nguyễn Ái Quấc, rồi từ 1923 đến 1927, chỉ còn lại Nguyễn Thế Truyền ở Pháp, đã tả xung hữu đột, tranh đấu quyết liệt cho sự độc lập và dân chủ của đất nước. Sự phân công có thể như sau: Phan Châu Trinh, lãnh đạo tinh thần; Phan Văn Trường lãnh đạo chính thức. Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh viết nhanh, viết mạnh. Nguyễn Tất Thành phụ trách phần tin tức, việc quản trị Hội Liên Hiệp Thuộc Điạ và cổ động bán báo, in truyền đơn...

Phần lớn những người tham gia kháng chiến chống Pháp, từ Nho học đến Tây học, đều học giỏi nổi tiếng, nhưng đã vất bỏ văn bằng sang một bên để dấn thân. Hồ Chí Minh là một trường hợp đặc biệt, dù con quan, nhưng sớm bỏ học, trình độ quốc ngữ kém (xem bài Việt Nam Yêu Cầu Ca trong phụ bản dưới đây), tiếng Pháp sơ sài, ông đã sống rất cực khổ, làm bồi bếp trong suốt quãng đời thanh niên từ 1911 đến 1919, khi tới Pháp. Tại Pháp cũng chỉ có hai năm ở nhà Phan Văn Trường khu Gobelins là khá, sau này ra Compoint, một khu nghèo nàn thợ thuyền và ông cũng tiếp tục sống rất cơ cực, không kể còn có mặc cảm sâu xa đối với các bạn đồng hành trí thức. Đó là những lý do khiến Nguyễn Tất Thành theo cộng sản, mặc dù ông chưa hiểu rõ lý thuyết cộng sản như thế nào. Sau này, khi lên cầm quyền, việc đầu tiên là ông sẽ bắt mọi người phải kính nể, phải gọi ông bằng Bác, phải cúi đầu trước chân dung ông, và riêng đối với trí thức, ông sẽ dành cho họ những nhục nhằn mà ông đã phải gánh chịu trong suốt cuộc đời niên thiếu.

Phan Khôi, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo... là những người sẽ phải gánh tội của trí thức. Phan Khôi nặng nhất vì đã dám trực tiếp biếm vua: Tội đáng trảm quyết trên phương diện tinh thần. 
 
Hết phần thứ nhất


Phụ bản 
 
Revendications du Peuple Annamite
 
Depuis la victoire des Alliés, tous les peuples assujettis frémissent d'espoir devant la perspective de l'être de droit et de justice qui doit s'ouvrir pour eux en vertu des engagements formels et solennels, pris devant le monde entier par des différentes puissances de l'entente dans la lutte de la Civilisation contre la Barbarie.
En attendant que le principe des Nationnalités passe du domaine de l'idéal dans celui de la réalité par la reconnaissance effective du droit sacré pour les peuples de disposer d'eux- même, le peuple de l'ancien Empire Annam, aujourd'hui Indo-Chine Francaise, présente aux Nobles Gouvernements de l'Entente en général et à l'honorable Gouvernement Francais en particulier les humbles revendications suivantes:

1- Amnistie Générale en faveur de tous les condamnés politiques indigènes
2- Réforme de la justice indochinoise par l'octroi aux Indigènes des mêmes garanties judiciaires qu'aux Européens, et la suppression complète et définitive des Tribunaux d'exception qui sont des instruments de terrorisation et d'oppression contre la partie la plus honnête du peuple Annamite.
3- Liberté de presse et d'opinion.
4- Liberté d'associationet de Réunion
5- Liberté d'émigration et de voyage à l'étranger,
6- Liberté d'enseignement et création dans toutes les provinces des écoles d'enseignements techniques et professionnels à l'usage des indigènes.
7- Remplacement du  Régime des lois
8- Délégation permanente d'indigènes élus auprès du Parlement Francais pour le tenir au courant des désidérata indigènes.

Le peuple Annamite, en présentant des revendications ci-dessus formulées, compte sur la justice mondiale des toutes les Puissances et se recommande en particulier à la bienveillance du Noble Peuple Francais qui tient son sort entre ses mains et qui, La France étant une République, est censée d'avoir pris sous sa protection. En se réclament de la protection du Peuple Francais, Le Peuple Annamite, bien loin de s'humilier, s'honore au contraire; car il sait que le Peuple Francais représente la liberté et la justice, et ne renoncera jamais à son sublime idéal de Fraternité universelle. En conséquence, en écoutant la voix des opprimés, le Peuple Francais fera son devoir envers la France et envers l'Humanité.
Pour le Groupe des Patriotes Annamites: Nguyễn Ái Quấc
 
Thỉnh nguyện của dân tộc Annam
 
Từ khi Đồng Minh thắng trận và các cường quốc long trọng cam kết minh bạch trước thế giới quyết tâm tranh đấu lấy Văn Minh chống lại Hung Tàn, tất cả những dân tộc bị áp bức đều nôn nao hy vọng trước viễn ảnh sẽ được sống trong công bằng và luật pháp.
Trong khi chờ đợi nguyên tắc dân tộc tự quyết từ lý tưởng sang thực tế, bằng sự nhìn nhận thực sự quyền thiêng của mỗi dân tộc tự định đoạt lấy số phận mình; Chúng tôi, Thần dân của Đế quốc An Nam ngày trước, nay là Đông Dương Pháp, trình bày với Cao Quyền Đồng Minh nói chung và Kính Quyền Pháp nói riêng, những thỉnh nguyện khiêm tốn sau đây:

1- Ân xá tất cả tù binh chính trị bản xứ.
2- Cải tổ luật pháp Đông dương, bằng cách bảo đảm cho người bản xứ những điều kiện về luật pháp như người Âu châu. Bỏ hẳn các toà án đặc biệt là những công cụ khủng bố và đàn áp thành phần lương thiện nhất của dân tộc An Nam.
3- Tự do báo chí và tư tưởng.
4- Tự do lập hội và hội họp.
5-Tự do di dân và du lịch ra nước ngoài.
6-Tự do giáo dục và xây dựng những trường kỹ thuật và thực nghiệp tại các tỉnh cho người bản xứ.
7- Thay thế Chế độ pháp lý.
8- Có phái đoàn đại diện thường trực dân biểu bản xứ tại Nghị viện Pháp để thông báo những nguyện vọng của người dân bản xứ.

Dân tộc An Nam, qua những thỉnh nguyện trên đây, tin tưởng ở công pháp quốc tế của các cường quốc và đặc biệt trông cậy vào lòng thành của dân tộc Pháp cao quý, đang cầm vận mệnh của chúng tôi trong tay, nước Pháp là một nước Cộng hoà, cầm bằng như đã bảo hộ chúng tôi. Khi thỉnh cầu sự bảo trợ của Dân tộc Pháp, Dân tộc An Nam, không hề tự hạ mình, mà ngược lại còn lấy làm vinh hạnh, vì họ biết Dân tộc Pháp biểu hiện tự do và công bằng, không bao giờ từ khước lý tưởng cao cả: Tứ hải giai huynh đệ. Vì vậy, khi đáp ứng tiếng kêu của người bị áp bức, Dân tộc Pháp không những làm tròn bổn phận đối với nước Pháp mà còn đối với cả Nhân loại.
Thay mặt nhóm An Nam Yêu Nước - Nguyễn Ái Quấc.
(Thụy Khuê dịch)
 

Việt-Nam yêu cầu ca
Bằng nay gặp hội Giao hoà.
Muôn giân hèn yếu gần xa vui tình.
Cầy rằng các nước Đồng minh
Đem gươm công lí giứt hình giã man
Mấy phen công bố rõ ràng.
Dân nào rồi cũng được trang bình quyền
Việt Nam xưa cũng oai thiêng
Mà nay đứng giới thuộc quyền Lang-sa.
Lòng thành tỏ nỗi sút sa.
Giám xin đại quấc soi qua chút nào.
1 xin tha kẻ đồng-bào.
Vì chưng chính trị mắc vào tù giam.
2 xin phép luột sửa sang
Người Tây người Việt hai phương cùng đồng.
Những toà đặc-biệt bất công
Giám xin bỏ giứt rộng giung dân lành
3 xin rộng phép học hành
Mở mang kỵ nghệ, tập tành công thương
4 xin được phép hội hàng
5 xin nghị ngượi nói bàn tự gio
6 xin được phép lịch giu
Bốn phương mặc sức, năm châu mặc tình.
7 xin hiến-pháp ban hành
Trăm đều phải có thần-linh pháp quyền.
8 xin được cử nghị-viên.
Qua Tây thay mặt giữ quyền thổ giân.
Tám đều cặn tỏ xa gần.
Chưng nhờ vạn quốc công giân xét tình
Riêng nhờ giân Pháp công bình
Đem lòng đoái lại của mình trong tay.
Pháp giân nức tiếng xưa nay.
Đồng-bào, bác ái sánh tày không ai.
Nỡ nào ngảnh mặt ngơ tai.
Để cho mấy ức triệu người bơ vơ.
Giân Nam một giạ ước mơ
Lâu nay tiếng núp bóng cờ tự-gio.
Rộng xin giân Pháp xét cho
Trước phò tiếng nước, sau phò lẽ công.
Gịch mấy chữ quấc âm bày tỏ
Để đồng-bào lớn nhỏ được hay.
Hoà bình may gặp hồi nầy
Tôn sùng công lí, đoạ đày gia-man
Nay gặp hội khải hoàn hĩ hạ
Tiếng vui mừng khắp cả đồng-giân
Tây vui chắc đã mười phần
Lẽ nào Nam lại chịu thân tôi đòi
                  *******
Hẵng mở mắt mà soi cho rõ
Nào Ai-lan, Ấn-độ, Cao-ly.
Xưa, hèn phải bước suy vi
Nay, gần độc lập cũng vì giân khôn
Hai mươi triệu quấc hồn Nam Việt
Thế cuộc nầy phải biết mà lo
Đồng bào, bình đẳng tự gio
Xét mình rồi lại đem so mấy người
Ngổn ngang lời vắn ý giài
Anh em đã thấu lòng nầy cho chưa

Nguyễn Ái Quấc